Liên quan tới việc 100 container hạt điều Việt Nam xuất sang Ý có nguy cơ bị lừa với 36 container đang chịu rủi ro, luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên VIAC (Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam) phân tích: Trong trường hợp xảy ra rủi ro, hàng đã chuyển ra nước ngoài và có nguy cơ mất hàng mà không nhận được tiền thì cũng tương tự như việc bán hàng trong nước, nhà xuất khẩu sẽ đề nghị ngân hàng hỗ trợ (nếu thuộc quyền của ngân hàng hoặc pháp luật cho phép). Đồng thời, đề nghị cơ quan ngoại giao liên hệ với cơ quan chức năng hay cơ quan pháp luật nước ngoài xử lý đối với một vụ khiếu nại, gian lận, tranh chấp thương mại (nếu có căn cứ pháp luật và kịp thời). Đồng thời, có thể tiến hành khởi kiện một vụ án dân sự hay đề nghị khởi tố một vụ án hình sự về hành vi lừa đảo.
"Nếu ở Việt Nam, việc kiện cáo đã thấy rất khó, thì ở nước ngoài khó gấp 10, thậm chí gấp 100. Với phương thức thanh toán nhờ thu, vận đơn bị mất sau khi 36 container hạt điều cập cảng đến thì hàng hoá đã vuột khỏi tầm tay của người bán cũng như ngân hàng. Chỉ còn dựa vào sự can thiệp của cơ quan ngoại giao và cơ quan pháp luật nước ngoài để ngăn chặn (nếu kịp) và truy lùng tội phạm (nếu có)”, luật sư Trương Thanh Đức cho biết.
Theo Giám đốc Công ty Luật ANVI, ở thị trường trong nước, giao dịch thương mại chủ yếu dựa vào các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thông qua ngân hàng (nhất là đối với các khoản thanh toán từ 20 triệu đồng trở lên). Tuy nhiên, hai bên mua bán hàng hoá, dịch vụ có sự chủ động cao, ít phụ thuộc vào ngân hàng, vì với vai trò trung gian thanh toán, ngân hàng chủ yếu cung ứng các công cụ, phương tiện thanh toán. Lý do là hai bên cùng là pháp nhân Việt Nam, sử dụng cùng một hệ thống pháp luật và cùng hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, nên có thể chủ động trong việc nắm bắt, bám sát đối tác, hàng hóa, vận chuyển, giao nhận, thanh toán cũng như khi giải quyết vướng mắc.
Khác với thương mại trong nước, thương mại quốc tế dựa trên các hệ thống pháp luật khác nhau, đồng tiền khác nhau và các bên không dễ dàng gặp gỡ trực tiếp để xử lý các trục trặc. Đặc biệt khi xảy ra việc tranh chấp, khiếu nại, kiện cáo ở nước ngoài thì vô cùng phức tạp, tốn kém về tố tụng tòa án, trọng tài và thi hành án. Vì vậy, việc thanh toán trong giao dịch thương mại quốc tế thường phải dựa vào bên trung gian có uy tín là ngân hàng, là tổ chức tài chính chuyên nghiệp về dịch vụ thanh toán, thành thạo luật chơi chung và đặc biệt là có độ tin cậy rất cao tại mỗi nước sở tại.
Trong thương mại quốc tế, có một số phương thức thanh toán tương đối phổ biến như chuyển tiền (TT), thư chuyển tiền (MTR), trả tiền lấy chứng từ (C.A.D), L/C và nhờ thu (Collection), trong đó có nhờ thu trả ngay (D/P) trong vụ xuất khẩu hạt điều.
Việc các bên lựa chọn phương thức thanh toán nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ quan hệ, khả năng chấp nhận rủi ro, giao dịch theo thông lệ thị trường cũng như thói quen, căn nhắc yếu tố chi phí, thời gian và nhất là theo yêu cầu của bên dẫn dắt giao dịch. Vì vậy, dù L/C là phương thức thanh toán bảo đảm nhất (pháp luật Việt Nam coi nghiệp vụ mở L/C là hoạt động bảo lãnh), nhưng vẫn không được các bên lựa chọn trong nhiều giao dịch xuất nhập khẩu.
Phương thức thanh toán D/P được quy định tại Quy tắc thống nhất về nhờ thu (URC 522) do Phòng Thương mại quốc tế (ICC) sửa đổi năm 1995, có hiệu lực từ ngày 1/1/1996. Theo đó, nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ đề nghị một ngân hàng trong nước (phục vụ người xuất khẩu) nhờ một ngân hàng nước ngoài (phục vụ người nhập) thu hộ tiền hàng, sau đó giao bộ chứng từ vận chuyển gốc (vận đơn) cho người nhập khẩu để đến cảng nhận hàng. Ai nắm được vận đơn thì có quyền nhận hàng hoá. Cuối cùng, hai ngân hàng ở 2 nước phối hợp với nhau giữ hộ tiền và chuyển trả lại cho người bán.
Qua sự việc trên, đại diện Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đã đưa ra khuyến cáo: Doanh nghiệp xuất khẩu cần đánh giá đúng tầm quan trọng để lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp với số tiền thanh toán; cần thuê tư vấn soạn thảo hợp đồng. Thủ đoạn lừa đảo đơn giản mà hiệu quả hiện nay là tạo lòng tin từ những chuyến hàng hay hợp đồng nhỏ với cách thanh toán đơn giản. Sau đó, tăng dần số tiền của hợp đồng lên mức cao hơn mà vẫn dùng cách thanh toán đơn giản để tìm cách gian lận với chiêu bài "đã tin cậy" nên "đơn giản" để đỡ phí ngân hàng, đỡ đọng vốn so với hình thức mở thư tín dụng L/C.
Theo Bộ Công Thương, sau khi nắm bắt thông tin về vụ việc, Bộ đã chỉ đạo Tham tán Thương mại tại Italia trực tiếp đến các cảng Genova, Napoli (Italy) là những nơi mà các lô hàng được đưa đến, làm việc với đơn vị quản lý cảng, hãng tàu, ngân hàng và chính quyền địa phương, đề nghị tạm thời chưa tiến hành giao hàng để có thời gian làm rõ vụ việc. Hiện cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Italia cũng đã hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận luật sư tại Italia để tư vấn, tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết giúp doanh nghiệp Việt Nam kiểm soát các lô hàng.
Tính đến ngày 15/3, còn 36/74 container hàng với giá trị 162 tỷ đồng đang thất lạc chứng từ. Trong số đó, có 8 container hàng đã cập cảng Genova, các container hàng còn lại sẽ đến cảng của Italy vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/2022.
Theo pháp lý quốc tế, các hãng tàu bắt buộc phải giao hàng cho người nhận khi họ cung cấp đầy đủ chứng từ (bản chứng từ gốc mà các doanh nghiệp Việt Nam đang thất lạc) và nộp phí nhận hàng. Đối với các container đã thu hồi được bộ chứng từ gốc, các doanh nghiệp đang tìm kiếm đối tác tại châu Âu để bán lại nhằm giảm thiểu thiệt hại.
Trước đó, đại diện Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Thông qua Công ty môi giới Kim Hạnh Việt, 5 doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu nhân điều đã ký hợp đồng với một số khách hàng Italy để xuất khẩu nhân điều sang nước này. Tổng lượng hàng xuất khẩu là 74 container. Các doanh nghiệp Việt thực hiện hợp đồng với phương thức thanh toán nhờ thu, hay còn gọi là “trả tiền nhận chứng từ D/P”.
Sau khi làm thủ tục xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam lấy được bộ chứng từ từ hãng vận chuyển. Chứng từ sau đó được chuyển đến cho ngân hàng của người bán tại Việt Nam. Ngân hàng phía Việt Nam chuyển phát nhanh bộ chứng từ này cho ngân hàng của nhà nhập khẩu ở châu Âu. Nhà nhập khẩu sẽ tiến hành thanh toán cho ngân hàng nhập khẩu và nhận bộ chứng từ. Với bộ chứng từ này, người mua có thể nhận hàng tại cảng và ngân hàng nhập khẩu tiến hành chuyển giao tiền cho ngân hàng phía Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề xảy ra khi bộ chứng từ gốc từ Việt Nam chuyển qua châu Âu đã “thất lạc”.
Trong quá trình làm việc với đối tác nhập khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu nhân điều đã phát hiện nhiều dấu hiệu bị lừa đảo. Trong đó, 36 container bị mất các bộ chứng từ gốc. Doanh nghiệp Việt chưa nhận được tiền, còn người mua, bằng cách nào đó, đã lấy được bộ chứng từ gốc. Chiếu theo Luật Thương mại quốc tế, hãng tàu phải giao hàng cho người nhận có bộ chứng từ gốc, nếu không sẽ bị kiện.