Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, về quan điểm sửa đổi luật, các luật được xây dựng rất tốt, đúng và phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ, Luật Đầu tư công 2019 đã đạt kết quả rất tích cực, được cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành đánh giá cao, nhưng do yêu cầu phát triển mới, thay đổi tư duy và phương thức quản lý từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, từ “quản lý” sang “quản lý cho kiến tạo phát triển”.
Do đó, Luật Đầu tư công cũng phải sửa đổi để phù hợp với xu thế mới, yêu cầu mới, không chỉ tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thời gian qua mà còn tiếp tục khơi thông và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư cho phát triển trong thời gian tới.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, việc sửa đổi Luật đã thể hiện sâu sắc tinh thần đột phá, cải cách, phân cấp, phân quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương, Quốc hội, Chính phủ giữ vai trò kiến tạo, tăng cường hoàn thiện thể chế và kiểm tra, giám sát; bảo đảm rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ kết quả; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tránh tạo cơ chế “xin-cho”…
Các chính sách sửa đổi tại Luật là các vấn đề “đã chín”, “đã rõ”, thực sự quan trọng, thực sự cấp bách và được kiểm nghiệm trên thực tế, đặt ra yêu cầu phải thể chế hóa tại Luật.
Luật sửa đổi cũng kế thừa, phát huy các ưu điểm, thành quả của Luật Đầu tư công năm 2019, sửa đổi có chọn lọc, tránh gây xáo trộn lớn, tạo điều kiện triển khai luật ngay sau khi được Quốc hội ban hành.
Bên cạnh đó, Luật sửa đổi lần này cũng phù hợp với hiến pháp và các luật liên quan, tạo môi trường pháp luật đồng bộ, liền mạch để thực hiện dự án đầu tư công thuận lợi.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, cơ sở chính trị, cơ sở thực tiễn đều đặt ra yêu cầu phải khẩn trương sửa đổi Luật nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giải phóng nguồn lực, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, đạt được các mục tiêu về phát triển kinh tế xã hội, cũng như phát triển kết cấu hạ tầng tại Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021-2030.
Luật Đầu tư công sửa đổi cũng tạo căn cứ pháp lý để áp dụng ngay cho quá trình xây dựng và thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030.
Nếu Luật không được thông qua tại Kỳ họp thứ 8 thì Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030 sẽ được xây dựng theo Luật năm 2019, nhưng thực hiện theo luật mới, không đồng bộ, phát sinh nhiều trường hợp chuyển tiếp, rất phức tạp trong quá trình thi hành.
Việc xây dựng luật không phải đến nay mới làm mà là kết quả của cả một quá trình đánh giá những ưu điểm, hạn chế của Luật Đầu tư công năm 2019 trong triển khai thực tế, từ đó đề ra giải pháp tháo gỡ, phù hợp với yêu cầu quản lý trong tình hình mới.
Chính phủ đã chỉ đạo rất quyết liệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngay từ khi bắt đầu đã khẩn trương phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội, các bộ, cơ quan, địa phương tập trung xây dựng dự thảo luật, đạt sự đồng thuận cao ngay từ đầu (tổ chức 20 cuộc tọa đàm, 4 hội nghị lấy ý kiến 63 địa phương và các đối tác phát triển, nhà tài trợ nước ngoài).
Đồng thời, tại Kết luận số 97/KL-TW, Trung ương đã quyết nghị giao Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật trong Kỳ họp thứ 8.
Đáng chú ý, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng kiến nghị Quốc hội thông qua luật theo hình thức thay thế toàn bộ Luật Đầu tư công năm 2019, không phải là luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật năm 2019 do: Các nội dung sửa đổi tại dự thảo Luật Chính phủ đang trình Quốc hội là cần thiết, có cơ sở chính trị và cơ sở thực tiễn, nhằm tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công.
Bên cạnh đó, việc thay thế bằng luật mới sẽ bảo đảm thống nhất, đồng bộ, dễ thực hiện. Trường hợp chuyển thành hình thức luật sửa đổi, bổ sung một số điều thì vẫn không thay đổi số điều sửa đổi của luật, nhưng lại tồn tại song song 2 luật cùng có hiệu lực, rất khó khăn cho các đối tượng trong quá trình triển khai luật
Trường hợp thay đổi hình thức sửa đổi luật sẽ phải điều chỉnh lại hồ sơ, xây dựng lại dự thảo luật, trong khi đó thời gian còn lại của kỳ họp không đủ để thực hiện các nội dung này.
Về nâng quy mô vốn đầu tư công của các nhóm dự án, theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, tiêu chí dự án quan trọng quốc gia sử dụng vốn đầu tư công từ 10.000 tỷ đồng trở lên đã được quy định từ năm 1997 (trước khi có Luật Đầu tư công), được kế thừa và quy định tại Luật Đầu tư công năm 2014 và giữ nguyên tại Luật Đầu tư công năm 2019. Như vậy, sau 27 năm triển khai, tiêu chí này chưa được điều chỉnh.
Đến nay, trong bối cảnh quy mô nền kinh tế đã tăng hơn 10 lần so với năm 2000 và tăng hơn 2,5 lần so với năm 2013; tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2013-2024 tăng gần 3 lần; trượt giá bình quân hằng năm từ năm 2000 khoảng 3%/năm và dự kiến hiệu lực của luật từ 5-10 năm thì việc nâng quy mô các nhóm dự án là phù hợp với thực tiễn và diễn biến vận động của nền kinh tế trong thời gian qua và phù hợp với yêu cầu trong thời gian tới.
Việc nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia lên 30.000 tỷ đồng để phân cấp mạnh mẽ hơn trong quản lý đầu tư công, bảo đảm tính ổn định trong thực hiện luật, tránh việc phải điều chỉnh thường xuyên.
Đối với các dự án nhóm A, nhóm B, nhóm C, việc tăng quy mô vốn đầu tư công lên 2 lần là phù hợp với khả năng hoàn thành dự án theo thời gian bố trí vốn thực hiện dự án (dự án nhóm A 6 năm, nhóm B 4 năm, nhóm C 3 năm).
Trong giai đoạn 2021-2025, Quốc hội đã quyết nghị chủ trương đầu tư 10 dự án quan trọng quốc gia; trong đó có 9 dự án có quy mô trên 10.000 tỷ đồng . Trong số 9 dự án này, có 5 dự án có quy mô trên 30.000 tỷ đồng.
Trong giai đoạn 2026-2030, tổng hợp sơ bộ các dự án cần triển khai theo các Nghị quyết của Bộ Chính trị, có khoảng 40 dự án có quy mô trên 10.000 tỷ đồng; trong đó có khoảng 30 dự án có quy mô trên 30.000 tỷ đồng.
Như vậy, khi nâng quy mô dự án quan trọng quốc gia lên mức trên 30.000 tỷ đồng thì số lượng dự án cần trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư vẫn còn rất nhiều, chưa kể các dự án khác phát sinh trong kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội.