Chính sách đúng đắn giúp doanh nghiệp tư nhân vươn lên mạnh mẽ

Để Nghị quyết số 68-NQ/TW (NQ68) của Bộ Chính trị đi vào cuộc sống, cần sự vào cuộc đồng bộ của các bộ, ngành, đặc biệt trong xây dựng và ban hành chương trình hành động, tháo gỡ tất cả các “nút thắt” thể chế.

Chú thích ảnh
Doanh nhân Nguyễn Hồng Phong, Tổng Giám đốc Công ty CP Công Nông nghiệp Tiến Nông, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa, trả lời phóng viên báo Tin tức và Dân tộc. 

Nhân Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10), phóng viên Báo Tin tức và Dân tộc (TTXVN) đã có cuộc trao đổi với doanh nhân Nguyễn Hồng Phong, Tổng Giám đốc Công ty CP Công Nông nghiệp Tiến Nông, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa xung quanh vấn đề này.

Thưa ông, sau 5 tháng hiện thực các chính sách, văn bản pháp luật theo “kim chỉ nam” của NQ68, cộng đồng doanh nghiệp đã được thụ hưởng ra sao?

Có thể nói rằng, NQ68 ra đời là sự "đột phá của đột phá" trong cả nhận thức, tư duy và hành động, tạo thêm nhiều động lực phát triển mới cho kinh tế tư nhân (KTTN); mở ra cơ hội bình đẳng, minh bạch hơn cho cộng đồng doanh nghiệp. Những điểm nghẽn cố hữu cũng đã được “điểm mặt, gọi tên” và có những giải pháp thiết thực, hiệu quả, triệt để tháo gỡ. 

Chú thích ảnh
Quy trình kỹ thuật sản xuất phân bón luôn được Công ty chú trọng.

Các quan điểm, nội dung của NQ68 đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và doanh nhân; bảo đảm KKTN cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận cơ hội kinh doanh và các nguồn lực của nền kinh tế, nhất là vốn, đất đai, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực hợp pháp khác của đất nước.

Một trong những điều tôi tâm đắc nhất ở NQ68 là quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định. Nhìn lại chặng đường phát triển của chính mình với Tiến Nông, tôi càng thấy rõ, khi chính sách đúng đắn, doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có thể vươn lên mạnh mẽ, đóng góp cho nền kinh tế đất nước. 

Chúng tôi không chỉ đơn thuần làm kinh doanh, mà còn mang trong mình sứ mệnh “Nông nghiệp bền vững - Nông thôn văn minh - Nông dân hiện đại”, đồng hành cùng nông dân Việt Nam trong hành trình phát triển.

Chú thích ảnh
Tổng Giám đốc Công ty CP Công Nông nghiệp Tiến Nông, ông Nguyễn Hồng Phong (bên phải) và anh Nguyễn Đức Minh, Thư ký chuyên môn Uỷ ban IV, tại Chương trình "Toàn cảnh Kinh tế tư nhân lần thứ nhất", diễn ra ngày 10/10/2025, tại Hà Nội.

Với vai trò là “thuyền trưởng” của doanh nghiệp tư nhân, tiên phong trong khoa học công nghệ (KHCN) của tỉnh Thanh Hóa; đồng thời đảm nhận trọng trách là Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh, có lần ông từng nhấn mạnh về rào cản trong khung pháp lý. Vậy cụ thể những hạn chế này là gì, thưa ông?

Từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp KHCN và cộng đồng doanh nhân, có thể nhận diện 5 hạn chế lớn trong khung pháp lý. Đó là chu kỳ lập pháp chậm, tức là nhiều văn bản hướng dẫn lạc hậu ngay khi ban hành. Ví dụ: Luật Giao dịch điện tử 2005, khi chưa kịp sửa đổi đã lạc hậu so với thương mại điện tử xuyên biên giới, fintech (công nghệ tài chính), blockchain (chuỗi khối). Và phải chờ tới năm 2023 mới được Quốc hội thông qua Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi).

Hiện sandbox mới áp dụng thí điểm trong fintech (Quyết định 942/QĐ-TTg năm 2021). Các lĩnh vực khác như nông nghiệp công nghệ cao, AI, y tế số… chưa có khung thử nghiệm. Bên cạnh đó có những quy định cứng nhắc, thiếu linh hoạt.

Đó là, nhiều công nghệ mới không có trong danh mục, gây khó khăn cho việc đăng ký và thương mại hóa. Ví dụ, nhiều doanh nghiệp sản xuất chế phẩm sinh học nông nghiệp gặp khó vì chưa có trong danh mục, buộc phải đăng ký dưới dạng “phân bón mới”, mất nhiều năm thử nghiệm lại từ đầu. 

Khó khăn nữa đối với doanh nghiệp KHCN, chưa có cơ quan độc lập thường xuyên đánh giá tác động của công nghệ mới đối với xã hội và luật pháp. 

Chú thích ảnh
Dây chuyền đóng bao tự động của nhà nhà máy dinh dưỡng cây trồng Tiến Nông.

Chúng tôi đề xuất khung pháp lý “thích ứng và tiên liệu” cho Việt Nam, trong đó tập trung vào nhóm giải pháp thiết lập hệ thống sandbox (cơ chế thử nghiệm) đa lĩnh vực. Mỗi sandbox có thời hạn thử nghiệm rõ ràng (6 - 18 tháng), kèm theo chỉ số đánh giá (KPIs) về hiệu quả kinh tế – xã hội – môi trường. Sau thử nghiệm, cơ quan quản lý cần đưa ra quyết định thương mại hóa hoặc sửa luật.

Ví dụ tại Thanh Hóa, mô hình canh tác số sử dụng cảm biến đo độ ẩm, drone phun thuốc và blockchain truy xuất nguồn gốc đã được thử nghiệm nhưng gặp khó do chưa có hành lang pháp lý về dữ liệu nông nghiệp. Nếu có sandbox, mô hình này có thể triển khai quy mô lớn, giảm 20 - 30% chi phí sản xuất.

Khung pháp luật cần tập trung vào nguyên tắc nền tảng trong bảo vệ người tiêu dùng, an toàn dữ liệu, minh bạch, thay vì mô tả công nghệ cụ thể vốn rất nhanh lỗi thời. Điều này phù hợp với kinh nghiệm của Anh và Hà Lan, nơi các nguyên tắc chung cho phép bao phủ những mô hình kinh doanh chưa từng tồn tại trước đó. Ví dụ trong nông nghiệp chỉ cần quy định “đảm bảo chuẩn an toàn sinh học và truy xuất nguồn gốc”, thay vì liệt kê từng loại công nghệ cụ thể.

Hiệp hội cũng đề xuất thành lập Trung tâm Dự báo và đánh giá tác động công nghệ. Trung tâm liên ngành (dưới sự chủ trì của Bộ KH&CN, phối hợp Bộ Tư pháp, Hiệp hội doanh nghiệp, Viện nghiên cứu) có thể bắt đầu với quy mô thí điểm trong 3 lĩnh vực: AI, nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, sau đó mở rộng. Đặc biệt, mọi văn bản pháp luật liên quan đến đổi mới sáng tạo phải được rà soát tối đa 18 tháng/lần. Rà soát không chỉ “trên giấy”, mà dựa trên bằng chứng từ sandbox, phản hồi của doanh nghiệp và dữ liệu thực tế. Cho phép điều chỉnh nhanh bằng Nghị định hoặc Thông tư, dựa trên dữ liệu thực tiễn từ sandbox và phản hồi doanh nghiệp.

Đơn cử, Luật Giao dịch điện tử (2005) mất gần 18 năm mới được sửa đổi, trong khi thương mại điện tử tăng trưởng trên 20%/năm. Nếu có cơ chế rà soát định kỳ, khoảng cách này đã được rút ngắn đáng kể.

Vậy cơ chế khuyến khích để doanh nghiệp tham gia thử nghiệm công nghệ mới cần được ưu tiên về tín dụng, thuế và hỗ trợ pháp lý như thế nào? thưa ông?

Đối với lĩnh vực tín dụng, cần hỗ trợ cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp hơn 1 - 2% so với thị trường; miễn, giảm thuế trong thời gian thử nghiệm; hỗ trợ pháp lý để doanh nghiệp được tư vấn, cấp giấy phép nhanh hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước cần công nhận và truyền thông các mô hình thành công như “trường hợp điển hình” để nhân rộng.

Về phía cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động đề xuất sáng kiến pháp lý, cung cấp dữ liệu thử nghiệm và cam kết tuân thủ nguyên tắc. Hiệp hội đóng vai trò cầu nối giữa thực tiễn và chính sách, đề xuất danh mục lĩnh vực cần sandbox, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thử nghiệm. Hiện, Israel có chương trình hỗ trợ startup công nghệ với mức tài trợ 40 - 50% chi phí thử nghiệm, đổi lại doanh nghiệp chia sẻ dữ liệu với Nhà nước để hoàn thiện luật. Việt Nam có thể tham khảo mô hình này.

Đội ngũ doanh nghiệp tư nhân chúng tôi đã nhận thức rõ được sứ mệnh của mình về trách nhiệm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân góp công sức để Việt Nam trở thành quốc gia hùng cường thịnh vượng vào năm 2045.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Bài, ảnh, clip: Phương - Đoàn (thực hiện)
Trình Chính phủ ban hành Nghị định hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị quyết 68
Trình Chính phủ ban hành Nghị định hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị quyết 68

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về hỗ trợ lãi suất 2%/năm từ ngân sách Nhà nước (NSNN) cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân (KTTN), hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh vay vốn để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn ESG.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN