Thưa bà, mức tăng trưởng GDP 5,05% của Việt Nam trong năm 2023 dù không đạt mục tiêu đề ra nhưng vẫn được xem là tích cực trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế toàn cầu. Bà đánh giá ra sao về vấn đề này?
Trong bối cảnh hầu hết các tổ chức quốc tế đánh giá năm nay, tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm hơn năm trước, ở mức dưới 3%, GDP của Việt Nam vẫn đạt được tăng trưởng 5,05%. Đây được xem là điểm sáng về tăng trưởng của khu vực và thế giới.
Kinh tế năm 2023 của Việt Nam duy trì đà tăng trưởng tích cực, quý sau cao hơn quý trước (quý I/2023 tăng 3,41%; quý II/2023 tăng 4,25%; quý III/2023 tăng 5,47%; quý IV/2023 tăng 6,72%). Tính chung cả năm 2023, GDP tăng 5,05% so với năm trước.
Theo đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,83%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,74%, khu vực dịch vụ tăng 6,82%. Tăng trưởng của một số ngành dịch vụ thị trường đạt mức khá: Bán buôn, bán lẻ tăng 8,82%; vận tải kho bãi tăng 9,18%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 12,24%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,24%.
Kết quả trên thể hiện, khu vực nông - lâm - nghiệp - thủy sản tiếp tục thể hiện vai trò trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế khi xuất khẩu lương thực ra bên ngoài cũng như duy trì kết nối với thế giới qua mặt hàng nông sản như gạo, rau quả… với những con số ấn tượng.
Số vốn đầu tư nước ngoài thực hiện là con số thật của các tập đoàn lớn quốc tế tin tưởng đầu tư vào Việt Nam với hơn 23 tỷ USD trong năm qua. Đây là mức đầu tư cao nhất trong vòng 5 năm qua. Bên cạnh đó, khách du lịch đến Việt Nam trong năm nay khoảng 12,6 triệu lượt người, vượt mục tiêu ban đầu là 8 triệu và đạt cả mục tiêu thay đổi là 12,5 triệu người. Điều này thể hiện Việt Nam là môi trường hấp dẫn không chỉ với các tập đoàn mà còn của cả người dân trên thế giới.
Thưa bà, mặc dù cán cân thương mại hàng hóa năm 2023 ước tính xuất siêu kỷ lục 28 tỷ USD, tuy nhiên, đây là lần đầu tiên trong giai đoạn 2012 - 2023, tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2023 của Việt Nam sụt giảm. Theo Tổng cục trưởng, thực trạng này đã thể hiện rõ khó khăn chung của kinh tế thế giới do tổng cầu suy giảm?
Thực trạng này đã thể hiện rõ khó khăn chung của kinh tế thế giới do nhu cầu sụt giảm. Con số xuất siêu hàng hoá 28 tỷ USD thực chất cũng do tăng trưởng nhập khẩu thấp hơn tăng trưởng xuất khẩu (-8,9% so với -4,4%). Qua đó có thể thấy, các doanh nghiệp sản xuất trong nước phục vụ cho xuất khẩu cũng chịu tác động tiêu cực do thiếu hụt đơn hàng nên không nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất.
Tuy nhiên trong bức tranh xuất nhập khẩu hàng hoá cuối năm, Việt Nam vẫn có một số điểm tích cực hơn so với đầu năm của cả xuất khẩu và nhập khẩu nhờ tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã có tín hiệu tích cực trong 3 tháng gần đây; xuất khẩu của một số mặt hàng nông sản mà Việt Nam có lợi thế so sánh vẫn đạt khá và xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực trong tháng 12/2023 cũng tăng trưởng dương. Tín hiệu tích cực cũng đến từ nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam khi tốc độ tăng trưởng của 3 tháng trong quý IV đạt tăng trưởng dương ở cả khu vực trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sau 3 quý liên tiếp giảm sâu và đạt cao nhất vào tháng 12/2023.
Từ những tín hiệu tích cực của xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như trên, có thể kỳ vọng nhu cầu thế giới đang có dấu hiệu hồi phục, doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu có xu hướng nhập khẩu nhiều hơn, từ đó tạo đà cho xuất khẩu của Việt Nam đạt tăng trưởng khá trong đầu năm 2024.
Cần khẳng định những tín hiệu tích cực của xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa trong những tháng cuối năm là kết quả từ những cố gắng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, ngành với các biện pháp tích cực, đồng bộ nhằm tháo gỡ khó khăn để hỗ trợ sản xuất trong nước, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường nỗ lực ngoại giao kinh tế với các đối tác lớn trên thế giới trong năm 2023. Nhiều cuộc tiếp xúc, trao đổi, xúc tiến đầu tư giữa Việt Nam và những quốc gia có tiềm năng phát triển về thương mại hai chiều được triển khai.
Các sản phẩm của ngành nông nghiệp tiếp tục có những đóng góp ấn tượng, là điểm sáng trong hoạt động xuất khẩu cả nước, đặc biệt là các nhóm hàng nông sản như: gạo, rau quả, cà phê, hạt điều… Lạm phát đã có xu hướng hạ nhiệt tại các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc và châu Âu,… tồn kho tại các nước đang giảm dần. Cùng với đó, nhu cầu tiêu thụ hàng hóa cũng thường tăng cao vào dịp lễ hội cuối năm, góp phần tiếp thêm sức cho đà hồi phục của xuất khẩu.
Theo bà, Việt Nam cần tập trung vào những giải pháp trọng tâm nào trong năm 2024 để đạt mục tiêu Quốc hội đặt ra đối với thương mại quốc tế của Việt Nam?
Theo tôi, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa; xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách kinh tế, thương mại cần thực hiện đồng bộ và thường xuyên; rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách hiện hành để làm rõ những nội dung không phù hợp với quy định quốc tế và cam kết trong các FTA, từ đó, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp quy cho phù hợp.
Phát triển xuất khẩu bền vững cần đi liền với đa dạng hóa thị trường hướng đến cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý với các đối tác. Thực tế cho thấy, Việt Nam đang phụ thuộc chủ yếu vào một số thị trường xuất khẩu lớn. Vì vậy, khi các quốc gia này rơi vào giai đoạn khủng hoảng, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đối mặt với những cú sốc lớn và bị gián đoạn.
Mặt khác, các nhà sản xuất Việt Nam đang gặp nhiều thách thức khi sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi năng lượng xanh sạch, sản xuất cacbon thấp, vật liệu bền vững, sản xuất thân thiện môi trường... từ thị trường nhập khẩu. Nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa bền vững đi liền với đa dạng hóa thị trường hướng đến cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý với các đối tác.
Việt Nam cần giảm thiểu rủi ro do điều tra phòng vệ thương mại hướng tới tăng trưởng xuất khẩu bền vững. Các Bộ, ngành cần đẩy mạnh công tác dự báo, cảnh báo sớm cho các doanh nghiệp những mặt hàng có thể gặp rủi ro bị tiến hành điều tra; cần thực hiện các giải pháp chứng minh hàng hóa Việt Nam không bán phá giá.
Doanh nghiệp cần sử dụng nguyên vật liệu có nguồn gốc xuất từ các quốc gia nằm trong các hiệp định thương mại tự do Việt Nam đã ký kết. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tránh nhập khẩu nguyên vật liệu từ các quốc gia đang bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Vì vậy, Bộ Công Thương cần đẩy mạnh hơn nữa công tác trao đổi, chia sẻ với các doanh nghiệp nhằm giúp họ nắm được những nguyên tắc điều tra, thấy rõ được tầm quan trọng của doanh nghiệp.
Kinh tế Việt Nam được dự báo tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn. Xin bà cho biết các động lực và giải pháp để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024?
Năm 2024, dự báo các rủi ro tiềm ẩn từ môi trường kinh tế thế giới vẫn còn hiện hữu và tiếp tục tác động tiêu cực lên triển vọng phục hồi tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Hậu quả của COVID-19 vẫn còn dai dẳng. Lạm phát ở một số nền kinh tế lớn nhiều khả năng vẫn ở mức cao do tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt; nợ công tiếp tục gia tăng; tăng trưởng thương mại toàn cầu tiếp tục xu hướng thấp, chịu ảnh hưởng từ cạnh tranh địa chính trị diễn biến căng thẳng, khó lường. Áp lực từ giá dầu thô, lương thực biến động mạnh, tăng lãi suất kéo dài ở nhiều quốc gia… Khả năng phục hồi của kinh tế toàn cầu chưa rõ ràng.
Ở Việt Nam, tuy thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen nhưng động lực truyền thống còn yếu, động lực mới chưa rõ ràng nên năm 2024 dự báo kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Một số động lực tăng trưởng kinh tế năm 2024 như: Khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản, tiếp đà tăng trưởng tích cực trong năm 2023, hiệu quả của chiến lược phát triển nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vừa đảm bảo nguồn cung và an ninh lương thực vừa phát triển nông nghiệp, khai thác, nuôi trồng thủy sản bền vững tiếp tục phát huy trong năm tới. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản dự báo tiếp tục ổn định, giá sản phẩm lương thực tăng sẽ đóng vai trò hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư công, nhất là đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được dự báo tiếp tục là điểm sáng, Việt Nam vẫn là một trong những lựa chọn ưu tiên của dòng vốn FDI. Lĩnh vực dịch vụ được kỳ vọng tiếp tục mở rộng nhờ sự phục hồi mạnh mẽ của ngành du lịch, từ đó tác động lan tỏa đến các ngành kinh tế khác, kích thích tăng trưởng.
Một số ngành thương mại có thể duy trì đà tăng trưởng bởi các chính sách thương mại và thúc đẩy tiêu dùng nội địa như: ngành vận tải hàng không, bán buôn bán lẻ, dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ tài chính, dịch vụ du lịch v.v.. Các ngành dịch vụ phi thị trường dự báo vẫn ổn định. Lạm phát được kiểm soát chặt chẽ, ở mức hợp lý, sẽ hỗ trợ tích cực cho tiêu dùng trong nước.
Sự phục hồi của ngành công nghiệp, việc làm và tiền lương sẽ giúp kích cầu tiêu dùng trong nước. Việc Chính phủ thực hiện cải cách tiền lương từ ngày 1/7/2024 sẽ có tác động lớn đến những người được hưởng lương và trợ cấp từ ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, 11.000 tỷ đồng sẽ được sử dụng để tăng lương hưu và 18.000 tỷ đồng sẽ được sử dụng để tăng trợ cấp cho những người có công với cách mạng.
Xin trân trọng cảm ơn bà!