Theo ông Nguyễn Anh Dũng, cán bộ cấp cao Dự án hỗ trợ năng lượng GIZ tại Việt Nam, mặc dù suất đầu tư điện gió ngoài khơi đã giảm từ 17 cent Mỹ/kWh (năm 2010) xuống còn khoảng 7,8 cent/kWh vào năm 2021 nhưng trên thực tế, vốn đầu tư điện gió ngoài khơi hiện vẫn cao gấp đôi so với đầu tư điện gió trong bờ hoặc điện mặt trời.
Theo đó, một dự án điện gió ngoài khơi công suất 1 GW sẽ cần khoảng 3 tỷ USD trong khi đầu tư một dự án điện gió trong bờ cùng công suất chỉ tốn khoảng 1,5 tỷ USD.
Ông Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam cho biết, dự án điện gió ngoài khơi có tính chất phức tạp, suất đầu tư lớn lại phải qua nhiều khâu khảo sát xây dựng, nghiên cứu tiền khả thi, xây dựng báo cáo khả thi mới có thể ra quyết định đầu tư cuối cùng và thu xếp vốn cho dự án. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư dự án điện gió ngoài khơi phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhất là giá đầu ra có tính cạnh tranh nên cần có các cơ chế chính sách đủ hấp dẫn, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư quyết tâm rót vốn vào lĩnh vực phúc tạp này.
Thực tế là các cơ chế, chính sách phát triển điện gió ngoài khơi vẫn chưa rõ ràng, các quy định chưa đầy đủ nên nhiều dự án điện gió ngoài khơi gặp không ít vướng mắc ngay từ khâu đầu tiên là khảo sát, thử nghiệm. Do vậy, cần sớm hoàn thiện khung pháp lý, tạo tiền đề trước mắt cho các nhà đầu tư thử nghiệm khảo sát mới có thể triển khai, ông Thập khẳng định.
Thực tế cũng cho thấy việc phát triển các dự án điện gió ngoài khơi phải gắn liền với quy hoạch không gian biển quốc gia để đảm bảo tận dụng tốt được nguồn năng lượng, tránh mâu thuẫn lợi ích với các ngành kinh tế khác như đánh bắt thủy hải sản, điện gió ngoài khơi, thăm dò khai thác dầu khí hay hàng hải.
Thêm vào đó, những quy định pháp luật hiện vẫn chưa xác định được cấp có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đối với loại hình điện gió ngoài khơi trong Luật Đầu tư năm 2020; chưa có các quy định về trình tự, tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư đối với các dự án điện gió ngoài khơi; chưa có chính sách, cơ chế giá cho các dự án điện gió ngoài khơi.
Đặc biệt, cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa có quy định về thủ tục, trình tự, hồ sơ, quản lý hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển, gió của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng số dự án được cấp phép chưa nhiều, thủ tục vẫn chậm, ông Bùi Vạn Thịnh, chủ tịch Hiệp hội Điện gió và mặt trời Bình Thuận chỉ rõ.
Ngày 29/8 vừa qua, trong khuôn khổ Hội nghị thúc đẩy triển khai các dự án hợp tác đầu tư Việt Nam - Singapore, Liên danh PTSC - Sembcorp đã được trao Giấy phép khảo sát và Ý định thư để triển khai các công tác liên quan đến việc phát triển dự án năng lượng tái tạo ngoài khơi tại Việt Nam, xuất khẩu điện sạch sang Singapore. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam đã trao Quyết định về việc chấp thuận hoạt động quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển (giấy phép khảo sát) cho Tổng Công ty cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC) – Đơn vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); đồng thời, đối tác Sembcorp Utilities Pte Ltd (Sembcorp) của PTSC được Bộ Thương mại và Công nghiệp Singapore trao Ý định thư chấp thuận dự án này.
Với việc được trao giấy phép khảo sát, PTSC hiện là nhà đầu tư đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép để triển khai các hoạt động quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển để phát triển dự án điện gió ngoài khơi. Sau khi nhận được giấy phép, Liên danh PTSC - Sembcorp sẽ triển khai các công tác đo gió, khảo sát biển và địa chất tại một số khu vực ngoài khơi vùng biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhằm thu thập các dữ liệu cần thiết để triển khai công tác đầu tư, phát triển dự án.
Ông Lê Mạnh Hùng, Tổng Giám đốc PVN cho biết, từ năm 2019, PVN đã bắt đầu xây dựng kế hoạch, lộ trình liên quan đến chuyển dịch năng lượng bằng việc sản xuất và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo thay thế. Tập đoàn cùng các đơn vị đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học nhằm đánh giá về cơ hội và chuẩn bị nhân lực, cơ sở vật chất đáp ứng khả năng triển khai các dự án năng lượng tái tạo ngoài khơi.
PVN cũng điều chỉnh chiến lược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu nâng tổng công suất đặt đạt 8.000 - 14.000 MW và tỷ trọng nguồn điện tái tạo chiếm 5-10% tổng công suất đặt của PVN. Đến 2045, PVN phấn đấu nâng công suất đặt chiếm từ 8-10% tổng công suất Hệ thống điện Việt Nam và tỷ trong nguồn năng lượng tái tạo chiếm 10-20% trong tổng công suất nguồn điện PVN.
Tuy nhiên, để hiện thực hoá mục tiêu phát triển điện gió ngoài khơi nói riêng và năng lượng tái tạo nói chung, việc xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp để huy động nguồn tài chính cho các dự án điện sạch này là thực sự cần thiết. Thêm vào đó, với thực tế triển khai dự án điện gió ngoài khơi ở các nước thường mất khoảng 9 năm chuẩn bị và thực hiện đầu tư trước khi đi vào vận hành, việc sớm có các chính sách rút ngắn đầu tư, các chính sách ưu đãi đầu tư là thực sự cần thiết để hiện thực hoá mục tiêu đến năm 2030 đưa vào vận hành 7 GW điện gió ngoài khơi và xuất khẩu ra nước ngoài.
Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, công suất tiềm năng điện gió ngoài khơi tại Việt Nam lên tới 475 GW; một số nghiên cứu của các tổ chức khác 900 GW, với chất lượng gió tốt tập trung ở các vùng Trung bộ, Nam Trung bộ và một phần duyên hải Bắc bộ.