Cuộc chiến cân não trên Địa Trung Hải giữa Liên Xô và Mỹ năm 1973 - Kỳ IV: Ai là người tháo ngòi nổ

Chiến tranh Trung Đông lần thứ 4 kết thúc, nhưng không vì thế mà cuộc đối đầu trên Địa Trung Hải giữa Liên Xô và Mỹ lắng dịu. Do hải quân Mỹ không chịu rút những tầu chiến tăng viện cho Hạm đội 6, nên hải quân Liên Xô vẫn tiếp tục tăng cường binh lực cho tiểu hạm đội Địa Trung Hải.


Ngày 26/10, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đó là James R.Schlesinger tuyên bố dỡ bỏ tình trạng chuẩn bị chiến tranh cấp độ 3. Tuy nhiên, quyết định này không đặt Hạm đội 6 trong phạm vi điều chỉnh. Binh lính và vũ khí trang bị thuộc Hạm đội 6 vẫn nằm trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất.

 

Cũng trong ngày 26/10, tư lệnh tiểu hạm đội Địa Trung Hải ra lệnh bắt đầu cuộc diễn tập chống tầu sân bay cường độ cao mà mục đích của nó không ngoài việc tập luyện kỹ năng tấn công tầu sân bay. Tất cả các tầu chiến của Mỹ đang có mặt ở Địa Trung Hải trở thành mục tiêu mô phỏng trong cuộc diễn tập này của tiểu hạm đội Địa Trung Hải.

 

Ngày 29/10, biên đội chống tầu sân bay số 4 của Liên Xô do tầu tuần dương trang bị tên lửa Grozny chỉ huy tiến vào Địa Trung Hải, từ ngày 31/10 bắt đầu thực hiện nhiệm vụ theo dõi tầu sân bay John F. Kennedy (CV 67) của Mỹ. Trong khi đó, nhiệm vụ theo dõi tầu sân bay trực thăng USS Iwo Jima (LPH 2) được giao cho biên đội chống tầu sân bay số 5.

 

Ngoài ra, Mátxcơva còn ra lệnh cho tầu khu trục hộ tống hai chiến hạm trang bị tên lửa hiện đại nhất của hải quân Liên Xô lúc bấy giờ là tầu hộ vệ lớp Nanuchka (loại 1234) tới Địa Trung Hải. Ngay trong lần ra mắt này, tầu hộ vệ lớp Nanuchka đã phải gánh vác nhiệm vụ nặng nề: gia nhập biên đội chống tầu sân bay. Như vậy, tính đến ngày 31/10, tổng số tầu chiến của tiểu hạm đội Địa Trung Hải đã lên tới 96 chiếc, trong đó có 34 tầu mặt nước và 23 tầu ngầm, tạo nên mối đe dọa nghiêm trọng đối với các lực lượng Mỹ có mặt ở Địa Trung Hải.

 

Về phía Mỹ, lúc này ở Địa Trung Hải, Lầu Năm góc bố trí 60 chiếc tầu chiến, chủ yếu là loại tấn công, trong đó đáng chú ý là 3 tầu sân bay, 2 tầu sân bay trực thăng (đã nêu ở trên) và 9 tầu ngầm. Rõ ràng, nếu xem xét trên góc độ tương quan so sánh lực lượng, người Mỹ đang ở thế bất lợi và ngày càng trở nên suy yếu trước sự gia tăng binh lực của Liên Xô. Do đó, Lầu Năm góc quyết định lựa chọn phương án tối ưu: đánh đòn phủ đầu trong trường hợp xung đột không thể tránh khỏi.

 

Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự Mỹ khi đó, với thực lực của mình, ngay trong đợt tấn công đầu tiên, tiểu hạm đội Địa Trung Hải có thể phóng tới 88 quả tên lửa, chủ yếu nhằm vào 3 tầu sân bay của Mỹ là Independence (CV 62), Franklin D.Roosevelt (CV 42), John F. Kennedy (CV 67) và 2 tầu sân bay trực thăng là USS Iwo Jima (LPH 2), USS Guadalcanal (LPH 7).


Tất cả các tầu chiến của tiểu hạm đội Địa Trung Hải đều đã sẵn sàng và chỉ đợi hiệu lệnh tấn công là hành động. Ở khoảng cách không xa so với tầm với của pháo hạm và tên lửa là toàn bộ lực lượng của Hạm đội 6 cũng đang căng lên như dây đàn. Áp lực lên tới đỉnh điểm. Bóng ma của một cuộc huyết chiến trên Địa Trung Hải giữa Liên Xô và Mỹ dường như đã ló dạng.

 

May mắn thay điều đó đã không xảy ra. Vào phút cuối, Oasinhtơn phát đi tín hiệu hòa hoãn bằng quyết định ra lệnh cho các cụm tầu sân bay của Hạm đội 6 rời khỏi phía nam đảo Crete đi về hướng tây. Mức độ căng thẳng nhanh chóng giảm xuống. Đáp lại thiện ý của phía Mỹ, từ ngày 3/11, Liên Xô cho khởi động tiến trình rút tầu chiến ra khỏi khu vực biển này. Địa Trung Hải trở về với sự êm đềm vốn có của nó.

 


Minh Thành (Tổng hợp)

Cuộc chiến cân não trên Địa Trung Hải giữa Liên Xô và Mỹ năm 1973 - Kỳ III
Cuộc chiến cân não trên Địa Trung Hải giữa Liên Xô và Mỹ năm 1973 - Kỳ III

Ngày 22/10, Ixraen phá vỡ hiệp định đình chiến ký với Ai Cập và Xyri. Tập đoàn quân số 3 của Ai Cập chiếm giữ bờ đông Kênh đào Suez bị quân Ixraen hợp vây, đứng trước nguy cơ xoá sổ. Cairô không ngừng phát đi tín hiệu cầu cứu.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN