Kỳ 1: Khởi đầu và hành trình “tàu trẻ mồ côi”
Theo tờ The New York Times, sáng 1/10/1854, 45 đứa trẻ ngồi trên hàng ghế trước trong một nhà thờ ở Dowagiac, bang Michigan (Mỹ). Phần lớn các em từ 10 đến 12 tuổi. Trong tuần, nhà thờ này được dùng làm trường học, nhưng hôm đó là Chủ nhật nên nơi này lại trở thành nhà thờ Trưởng Lão. Nhà thờ đông người hơn thường lệ, không chỉ vì lũ trẻ chiếm nhiều ghế mà còn vì có những người không sùng đạo đến do tò mò muốn xem những đứa trẻ mồ côi.
Thông báo tìm gia đình cho trẻ mồ côi. Ảnh: ATI
Trong vài tuần trước, báo chí đăng các thông báo và các cửa hàng tạp hóa, quán rượu, nhà ga được dán tờ rơi, kêu gọi các gia đình nhận nuôi trẻ em vô gia cư từ thành phố New York. Đám trẻ tới bằng tàu từ Detroit lúc ba giờ sáng và co ro đứng trên sân ga cho đến khi Mặt trời mọc. Đêm trước, chúng đã ở trên một tàu hơi nước, vượt Hồ Erie từ Buffalo (New York) và không đứa nào còn sạch sẽ vì dính bãi nôn do say sóng, của mình hoặc của người khác, hay do phân của súc vật di chuyển trên boong phía trên. Đêm trước nữa, chúng ngủ trên sàn một toa hàng tối om, giữa đám người nhập cư Đức và Ireland đang đi về phía Tây từ Albany.
Những ngày tháng rong ruổi lộ rõ trên vẻ xanh xao và nét mặt hơi xệ xuống của lũ trẻ. Quần áo của chúng vốn còn mới khi rời New York giờ đã ố bẩn, rách và toả mùi hôi giống mùi súc vật. Khuôn mặt chúng cảnh giác, như thể vừa bị bắt quả tang làm điều gì sai và đang chờ xem liệu mình có bị trừng phạt không. Ở một vài em nhỏ, tâm lý cảnh giác ấy gần như thành sợ hãi, nhưng phần lớn những cậu bé và cô bé lớn hơn đã trải quá nhiều thất vọng và cô đơn nên không còn sợ những gì sắp xảy tới, hoặc ít nhất là không bộc lộ nỗi sợ ấy, ngay cả với bản thân. Một số liếc nhìn, với ánh mắt thách thức hoặc nịnh hót, về phía những người đàn ông và đàn bà ngồi sau; một vài em cúi mặt nhìn đôi giày; vài em khác nhìn thẳng về phía một người đang phát biểu bằng giọng nói hăng hái. Ông là mục sư E. P. Smith và ông đang kể cho khán giả nghe về tổ chức mà ông đại diện: Hiệp hội Cứu trợ Trẻ em (CAS), tổ chức mới được mục sư trẻ tên là Charles Loring Brace thành lập chỉ một năm rưỡi trước.
Ông Charles Loring Brace. Ảnh: ATI
Ông Brace, người gốc Hartford (bang Connecticut), đến New York năm 1848 để học thần học và đã kinh hoàng trước cả bầy trẻ lang thang ăn xin, đánh giày, bán hoa và làm gái điếm tràn ngập đường phố và cũng kinh hoàng trước cách chính quyền đối xử với các em. Nghèo đói hàng loạt là một vấn đề mới vào thời đó. Cho tới đầu thế kỷ XIX, ở các thành phố Mỹ chưa có khu ổ chuột. Dĩ nhiên có người nghèo, có nhà cửa xuống cấp ở các con phố sau và có những quán rượu tai tiếng dọc bến cảng, nhưng chưa có những khu phố rộng lớn suy tàn, đầy sợ hãi và tuyệt vọng như nhiều nơi đô thị Mỹ ngày nay.
Ngay sau Chiến tranh năm 1812, làn sóng nhập cư ồ ạt và giai đoạn chuyển đổi khó khăn của quốc gia này sang chủ nghĩa tư bản công nghiệp đã chia các thành phố Mỹ thành hai phe đối nghịch: tầng lớp giàu có và tầng lớp nghèo cùng cực. Không thành phố nào mà sự phân chia này rõ nét hơn New York, nơi dân số vào đầu thế kỷ chưa đến 40.000 người mà đến khi kết thúc thế kỷ đã có gần 1,5 triệu người.
Năm 1849, cảnh sát trưởng đầu tiên của New York báo cáo rằng 3.000 trẻ em, tức gần 1% tổng dân số thành phố, sống trên đường, không có chỗ ngủ và buộc phải ngủ ở ngõ, nhà hoang hoặc dưới cầu thang. Ban đầu, chính quyền chủ yếu đối phó với những đứa trẻ lang thang này bằng cách bỏ chúng vào nhà tù người lớn và nhà tế bần. Rồi từ thập niên 1820, người ta xây trại giam vị thành niên và nơi trú ẩn - nhưng nơi cũng không khá hơn là mấy.
Ông Brace tin rằng phần lớn những đứa trẻ này không phải là tội phạm mà là nạn nhân của điều kiện kinh tế và xã hội khốn khổ. Việc bỏ tù chỉ khiến chúng chai lì và theo con đường tội phạm. Điều chúng thực sự cần là giáo dục, việc làm và những gia đình tốt. Vào tháng 3/1853, ông thành lập một tổ chức để mang lại cho các em những điều đó.
Trong năm đầu, CAS chủ yếu hướng dẫn tôn giáo trong các buổi họp Chủ nhật và dạy nghề lẫn kiến thức ở các trường công nghiệp của hội. Hội cũng lập nhà tạm trú đầu tiên cho trẻ bỏ nhà (Nhà trọ cho trẻ bán báo), nơi các cậu bé lang thang có chỗ ở giá rẻ, thức ăn và được dạy những kiến thức cơ bản.
Một chuyến tàu chở trẻ mồ côi ở Kansas. Ảnh: Hiệp hội Lịch sử Bang Kansas
Ngay từ đầu, ông Brace và các đồng nghiệp cố tìm việc và gia đình cho từng đứa trẻ, nhưng họ nhanh chóng bị quá tải vì số lượng cần sắp xếp quá lớn. Không thể quyên đủ tiền để tăng nhân sự, ông nghĩ ra sáng kiến gửi từng nhóm trẻ ra vùng nông thôn và để cư dân địa phương trực tiếp chọn đứa trẻ họ muốn. 45 trẻ em ngồi trong nhà thờ ở Dowagiac kia là nhóm đầu và là những hành khách đầu tiên của những gì sau này gọi là “tàu trẻ mồ côi”.
Khi mục sư Smith giải thích chương trình trước thính giả, ông vừa đánh động lương tâm họ vừa nhắm vào túi tiền họ. Những người tốt bụng mở cửa nhà đón một thành viên của “đội quân rách rưới” này sẽ được yêu cầu nuôi dạy chúng như con ruột: cho ăn mặc tử tế, cho học hành và đưa 100 USD khi các em đủ 21 tuổi. Khoản tiền 100 USD này không phải là khoản lỗ. Những cậu bé thì tháo vát, nhanh nhẹn và sẽ sớm học được nghề hoặc làm được công việc thông thường; các cô bé có thể làm mọi việc nhà.
Khi ông nói xong, chân ghế kêu ken két trên sàn và giáo dân tiến lên để nhìn kỹ các em. Có người là chủ cửa hiệu, thợ mộc, thợ rèn; có một người là bác sĩ; nhưng phần lớn là nông dân. Khi họ tiếp xúc với đoàn trẻ em của ông Smith, có người rưng rưng nước mắt vì thương những đứa trẻ vô tội phải chịu cảnh khổ. Người khác thì xem xét từ đầu tới chân, hỏi han để đánh giá sức khoẻ và tính thật thà. Một vài người còn bóp cơ bắp của trẻ hoặc thọc ngón tay vào miệng chúng để kiểm tra răng.
Việc phân chia các trẻ thực tế bắt đầu vào sáng hôm sau, tại quán trọ nơi các em tá túc. Trong một bài viết về chuyến đi do CAS xuất bản, ông Smith viết rằng để nhận một đứa trẻ, người nhận phải có thư giới thiệu của mục sư và của một viên chức tư pháp, nhưng điều đó khó có thể được thực hiện nghiêm ngặt.
Vào những ngày đầu, các đại diện của hội thường rất tuỳ tiện cả khi tiếp nhận lẫn khi phân phát những đứa trẻ. Chính ông Smith từng để một hành khách trên tàu từ Manhattan nhận một cậu bé rồi đổi bằng một đứa khác gặp ở sân ga Albany, một cậu bé mà ông Smith chẳng buồn xác minh xem có thật sự mồ côi hay không.
Khi người nhận không có giấy tờ cần thiết, ông Smith xem xét chất lượng và độ sạch sẽ của quần áo, hỏi về tài sản, nghề nghiệp và việc đi nhà thờ của họ. Nếu không thấy dấu hiệu họ là kẻ dối trá hoặc hư hỏng, ông trao cho họ một đứa trẻ.
Kết thúc ngày đầu tiên, 15 cậu bé và cô bé đã về sống với các gia đình nông dân hoặc thợ thủ công địa phương và đến tối ngày thứ 4, thêm 22 em nữa đã được nhận. Vào ngày thứ 5, ông Smith cùng 8 đứa trẻ chưa có người nhận (những em nhỏ nhất và do đó yếu nhất) tiếp tục đi về phía Tây bằng tàu hỏa. Ở Chicago, ông để các em tự lên một chuyến tàu đi Iowa City (một chuyến đi khoảng một ngày rưỡi), nơi một mục sư là C. C. Townsend, người điều hành một trại mồ côi địa phương, đón các em và tìm gia đình nuôi cho chúng. Còn với ông Smith, ông bắt chuyến tàu đầu tiên quay lại New York.
Đón đọc kỳ cuối: Tác động và bi kịch