Khoảng 6 giờ sáng 16/8/1942, chiếc khinh khí cầu nhỏ L-8 của Hải quân Mỹ cất cánh từ một sân bay nhỏ trên đảo Treasure, một hòn đảo nhân tạo được xây dựng ở Vịnh San Francisco. Trên khoang lái L-8 khi đó có hai người là Trung úy Ernest DeWitt Cody và Thiếu úy Charles Ellis Adams.
Năm giờ sau, chiếc L-8 rơi xuống con phố ngoại ô ở Daly City, California gần đó, làm hỏng các mái nhà và đứt đường dây điện. Đội cứu hỏa địa phương đã buộc phải rời đám cháy ở ngọn đồi gần đó để nhanh chóng đến địa điểm này để dập tắt lửa và giải cứu phi hành đoàn của khinh khí cầu nhỏ. Nhưng họ nhanh chóng phát hiện ra không có ai để cứu. Cả hai phi công bằng cách nào đó đã biến mất. Các tờ báo sau đó đặt cho L-8 biệt danh gắn liền với nó cho đến ngày nay: Khinh khí cầu ma.
Vào thời điểm đó, Mỹ đã tham chiến được hơn 8 tháng. Người Mỹ lo lắng về nguy cơ phát xít Nhật Bản tấn công Bờ Tây nước này, vì vậy để theo dõi tàu ngầm Nhật Bản, Hải quân Mỹ đã tập hợp một phi đội khí cầu ở đó, giống như việc họ đã làm ở Bờ Đông để tuần tra tàu ngầm phát xít Đức.
Hầu hết khí cầu Hải quân Mỹ lựa chọn cho nhiệm vụ này đều là khinh khí cầu nhỏ. Không giống như khí cầu với khung kim loại bên trong, chẳng hạn như khí cầu zeppelin của Đức, khinh khí cầu nhỏ bao gồm một quả bóng chứa đầy khí, với giỏ khí cầu được gắn bên dưới. Vì tính đơn giản của chúng, các khí cầu nhỏ có thể dễ dàng vận hành bởi phi hành đoàn ít người. Chúng thậm chí có thể ở trên cao và trôi nổi mà không cần phi hành đoàn trừ khi bóng khí của chúng bị thủng và khí gas rò rỉ ra ngoài.
Nhà sử học hàng không Dan Grossman chia sẻ với tạp chí Smithsonian: “Khinh khí cầu nhỏ có khả năng hoạt động hoàn hảo cho tuần tra ven biển. Chúng có thể ở trên không trong thời gian dài, bay chậm và bay ở độ cao thấp, lơ lửng trên mục tiêu và hoạt động trong điều kiện tầm nhìn hạn chế và trần mây thấp, tất cả đều là những thứ mà máy bay cánh cố định ở thời điểm đó không thể làm được”.
L-8 trước đây là khí cầu nhỏ mà công ty sản xuất lốp xe Goodyear chế tạo cho mục đích quảng cáo. Vào đầu năm 1942, Hải quân Mỹ đã trưng dụng nó cùng với bốn khí cầu dòng L khác và đặt chúng tại sân bay Moffett ở hạt Santa Clara, California.
Cả Cody và Adams đều là những phi công lái khinh khí cầu có kinh nghiệm. Cody (27 tuổi), tốt nghiệp Học viện Hải quân năm 1938. Adams (34 tuổi), đã gia nhập Hải quân hơn một thập niên. Anh ta đã sống sót sau thảm họa khinh khí cầu nổi tiếng: vụ va chạm và rơi khí cầu U.S.S. Macon ngoài khơi bờ biển California năm 1935.
Người đàn ông thứ ba, thợ máy James Riley Hill, đã ở trên khinh khí cầu một thời gian ngắn, nhưng Cody đã ra lệnh cho anh ta rời đi ngay trước khi L-8 rời Đảo Treasure. Hill tin rằng Cody lo lắng về trọng lượng tăng thêm trên chiếc L-8.
Một tiếng rưỡi đầu tiên của hành trình dường như không có gì bất ổn. Sau đó, vào lúc 7 giờ 50 phút sáng 16/8/1942, Cody và Adams thông báo qua đài phát thanh rằng họ đã phát hiện ra vết dầu loang trong nước - một dấu hiệu cho thấy có thể xuất hiện tàu ngầm - và đang điều tra nó. Đó là lần cuối cùng thế giới bên ngoài nghe được tin tức từ họ.
Lo lắng khi L-8 không báo cáo lại, Hải quân Mỹ đã điều máy bay tìm kiếm chiếc khí cầu nhỏ. Nỗi sợ hãi lắng xuống khi một căn cứ quân sự gần đó báo cáo rằng khinh khí cầu nhỏ hạ cánh ở đó và hai phi công đã thoát ra ngoài—tin tức này sau đó nhanh chóng được chứng minh là sai. Thay vào đó, khinh khí cầu đã hạ xuống một bãi biển cách đó khoảng một dặm. Người dân cho biết không có ai ở trên phương tiện này. Một số người tìm cách ghìm giữ khí cầu lại, nhưng nó vẫn bứt lên không và trôi về phía Daly City.
Cảnh sát và lực lượng cứu hỏa ở Daly City đã phát hiện phần cửa khoang điều khiển của L-8 mở nhưng không có dấu hiệu cháy hoặc hư hỏng nào khác. Đài radio của L-8 vẫn hoạt động bình thường và dù của cả hai phi công vẫn còn nguyên. L-8 bị mất một trong những bom chìm chống tàu ngầm mà nó thường mang theo. Tuy nhiên, quả bom này sau đó được phát hiện trên một sân golf gần đó. Ngoài hai phi công, thứ duy nhất biến mất là áo phao của họ. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên, vì đó là thông lệ tiêu chuẩn khi các phi công mặc áo phao trong chuyến bay.
Bí ẩn thêm khó hiểu khi các nhà điều tra thăm dò thêm. Vùng biển ngoài khơi San Francisco ngày hôm đó tấp nập tàu đánh cá cũng như các tàu của Hải quân và Cảnh sát biển, vì vậy rất nhiều người đã quan sát được chuyển động của khinh khí cầu nhỏ này. Theo lời khai mà các nhà điều tra đã ghép nối lại thì L-8 đã thả hai đèn báo khói xuống vết dầu loang để đánh dấu vị trí của nó, sau đó bay lên cao hơn. Một chiếc thủy phi cơ Pan Am Clipper đi ngang qua đã quan sát thấy L-8 đang bay. Một chiếc máy bay tìm kiếm phát hiện ra nó ở độ cao 609 mét, cao gấp đôi so với mức L-8 thường bay. Trong khi đó, trên mặt đất, hàng trăm người đã thấy L-8 dần xì hơi và ngày càng biến dạng khi nó trôi dạt trên bầu trời.
Các nhân chứng đưa ra những lời kể trái ngược nhau. Một số tuyên bố họ không nhìn thấy ai trên khinh khí cầu. Một người phụ nữ đang cưỡi ngựa trong khu vực cho biết cô ấy đã sử dụng ống nhòm và phát hiện không chỉ hai mà là ba người đàn ông trên tàu. Những người khác nói rằng đã nhìn thấy những người đàn ông nhảy dù.
Hải quân tiếp tục tìm kiếm vùng biển ngoài khơi San Francisco trong nhiều ngày. Nhưng không có dấu vết nào về hai phi công và những chiếc áo phao cũng chưa bao giờ được tìm thấy.
Trong những thập niên tiếp theo, nhiều giả thuyết đã xuất hiện. Có giả thuyết cho rằng hai phi công đã bị phát xít Nhật bắt giữ. Thêm vào đó còn có giả thiết họ đã bị sát hại bởi một kẻ trốn trên khinh khí cầu, họ đã giết nhau trong cuộc tranh giành, họ bị người ngoài hành tinh bắt cóc… Nhiều chuyên gia ngày nay ủng hộ giả thuyết rằng họ chỉ đơn giản là bị ngã, có thể là khi một người đi sửa chữa thứ gì đó bên ngoài tàu và bị trượt chân, tiếp theo là người kia cố gắng cứu anh ta và cũng bị ngã. Hải quân cũng ủng hộ lời giải thích đó, nhưng thừa nhận đó chỉ là “phỏng đoán”.
Những người khác cho rằng một phi công đã rơi từ khinh khí cầu và người còn lại nhảy xuống biển để hỗ trợ anh ta. Nhưng nhà sử học Grossman bác bỏ ý tưởng đó. Ông nói: “Chắc chắn có khả năng cả hai sĩ quan vô tình rơi xuống biển. Nếu một sĩ quan ngã xuống biển, người kia sẽ ở trên khinh khí cầu nhỏ gọi hỗ trợ từ radio và đánh dấu vị trí của đồng đội. Có bản năng ăn sâu trong bất kỳ người lính Hải quân nào là không từ bỏ con tàu của mình trừ khi thực sự cần thiết”.
L-8 quay trở lại phục vụ Hải quân sau khi được sửa chữa. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, nó quay trở về với công ty Goodyear. Đến năm 1982 nó “về hưu” và phần khoang điều khiển được chuyển đến trưng bày ở Bảo tàng Hàng không Hải quân quốc gia ở Pensacola, Florida.