Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng; bao giờ Đảng cũng “tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
Ngay từ ngày thành lập Đảng và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Ngay từ năm 1927 khi còn đang tạo dựng tiền đề để thành lập Đảng, Người đã nhấn mạnh: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” (1). Và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, thông qua nhiều bài viết, bài nói và hành động cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những điều cốt yếu về xây dựng Đảng.
- Đường lối chính trị là vấn đề cốt lõi
Đường lối chính trị là vấn đề cốt lõi quyết định sự tồn tại, phát triển và vai trò cầm quyền của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt” và “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” (2). Theo Người, chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đây là cơ sở lý luận, là nền tảng tư tưởng của Đảng, mọi đảng viên đều phải hiểu rõ và làm theo.
Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ: Nắm vững và thực hiện nguyên tắc này không phải theo cách giáo điều, mà phải vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với những điều kiện của Việt Nam, giải quyết những vấn đề cụ thể của cách mạng Việt Nam. Thực tế cho thấy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giữ vững và nêu cao tính cách mạng của giai cấp công nhân, tính kiên cường bất khuất của phong trào yêu nước Việt Nam; luôn bảo đảm tính khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về lý luận và trong giải quyết thực tiễn, đồng thời cũng độc lập, sáng tạo để đi tới mục tiêu của cách mạng.
- Xây dựng Đảng vững mạnh dựa trên các nguyên tắc
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng Đảng vững mạnh cần dựa trên một số nguyên tắc. Trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa “tập trung” và “dân chủ” có mối quan hệ khăng khít với nhau. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung; tập trung trên cơ sở dân chủ, theo nguyên tắc “cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng số nhiều; cấp dưới phải phục tùng cấp trên; các địa phương phải phục tùng Trung ương”. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một người”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Theo Người “lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau” (3).
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhằm tạo ra sức mạnh của Đảng, là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguồn sức mạnh, là khâu then chốt dẫn đến thành công của cách mạng. Do đó, Người yêu cầu “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” (4).
Coi trọng nguyên tắc tự phê bình và phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh. Nhờ đó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, tiến bộ không ngừng” (5). Người cho rằng: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (6).
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên còn bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể nhân dân. Việc đề cao ý thức kỷ luật đối với mọi cán bộ, đảng viên làm tăng thêm uy tín của Đảng; ngược lại, nếu cán bộ, đảng viên có nhiều vi phạm, coi thường kỷ luật của các đoàn thể nhân dân, thì uy tín của Đảng giảm thấp, dẫn tới nhiều nguy cơ cho Đảng.
- Xây dựng Đảng về đạo đức
Đạo đức cách mạng,theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có tinh thần trách nhiệm với công việc; yêu thương con người; tinh thần quốc tế trong sáng. Những phẩm chất đó có mối quan hệ tác động qua lại biện chứng với nhau, thiếu một phẩm chất thì người cán bộ, đảng viên không thể làm tròn nhiệm vụ do Đảng và nhân dân giao phó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao đạo đức của người cán bộ cách mạng, đặc biệt là đối với người đảng viên: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.”. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, người có đạo đức cách mạng thì nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Người khẳng định: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước" (7). Người yêu cầu: “Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ…” (8).
Không chỉ đề cao tầm quan trọng của việc nêu gương, Người còn yêu cầu mỗi cá nhân phải luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, để phát huy cái tốt, sửa đổi khuyết điểm: "Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng" (9).
Tu dưỡng đạo đức là công việc phải làm bền bỉ suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" (10). "Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là quyết tấm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất"(11).
- Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân
Gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh vì lợi ích của nhân dân là mục đích hoạt động, là lý do để tồn tại và là lẽ sống của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (12).
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện của “dân là gốc” là tin ở dân, gần dân, kính trọng dân và biết dựa vào dân: “Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng”; “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” (13). Người tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong” (14).
Nhận thức rõ vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ rằng sức mạnh của nhân dân chỉ được phát huy đầy đủ khi có một Đảng cách mạng lãnh đạo. “Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”. Làm như thế, chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí, mà Đảng ta sẽ phát triển rất mau chóng và vững vàng” (15). Khi sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì trở thành sức mạnh vô địch.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện nay
Từ khi Đảng ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã được nhân dân thừa nhận là Đảng duy nhất trong suốt tiến trình đi lên của cách mạng Việt Nam. Và lịch sử đã chứng minh, với sự lãnh đạo của Đảng và sự đồng lòng, đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân, dân tộc ta đã làm nên những thắng lợi vĩ đại, từ đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc đến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và ngày nay là đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới.
Kế thừa sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt những thập kỷ qua, Đảng ta đã không ngừng chăm lo xây dựng, chỉnh đốn cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Nghị quyết Trung ương 23, khóa III (tháng 12/1974) về xây dựng Đảng đã tạo sức mạnh, sự thống nhất ý chí, hành động của Đảng, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) là sự tự phê bình, phê bình nghiêm túc, một cuộc chỉnh đốn lớn để đi đến hoạch định đường lối đổi mới. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6/1992) về đổi mới, chỉnh đốn Đảng đã góp phần quan trọng cho công cuộc đổi mới phát triển mạnh mẽ vượt qua thách thức của sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô…
Bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng còn những hạn chế, khuyết điểm: một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, giảm sút ý chí chiến đấu, đặc biệt là sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước; công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch nhiều lần tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam, bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn nhằm kích động, lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Nhận thấy rõ nhiều nguy cơ, Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã ban hành Nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; tiếp đến Hội nghị Trung ương 4, khóa XII tiếp tục ban hành Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, thể hiện rõ quyết tâm chính trị, nhằm lập lại kỷ cương trong Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Và đến Hội Nghị Trung ương 4 khóa XIII, Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; và Quy định mới Về những điều đảng viên không được làm.
Phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: "Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn luôn là nhiệm vụ then chốt, đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ này".
Đứng trước tình hình thế giới và trong nước đang tạo ra cả thuận lợi và thách thức đan xen, toàn Đảng ta tiếp tục kiên định lập trường, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá. Đồng thời, tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch, tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm, lãnh đạo đất nước thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập.
(1) (2): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 2, tr. 289
(3): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 5, tr. 620
(4): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 15, tr. 622
(5): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 9, tr. 521
(6): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 5, tr. 301
(7): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 6, tr. 16
(8): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 14, tr. 168
(9): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 5, tr. 279
(10): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 11, tr. 612
(11): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 11, tr. 603
(12): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 5, tr. 502
(13): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 5, tr. 335.
(14): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 15, tr. 280
(15): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 5, tr. 338