Nhân dịp này, TTXVN xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương.
Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Ảnh: TTXVN
|
"Cách đây hơn 20 năm, Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” được ban hành. Đây là sự thể chế hóa đường lối cán bộ của Đảng nhằm tạo ra bước chuyển biến căn bản và toàn diện của đội ngũ cán bộ. 20 năm qua, Chiến lược cán bộ đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó, tạo khung thể chế cho sự định hình và phát triển đội ngũ cán bộ của thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Chiến lược cán bộ ra đời trong bối cảnh chuyển tiếp giữa hai thời kỳ phát triển của đất nước: Từ thời kỳ thực hiện các nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội VI của Đảng (12-1986) khởi xướng, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng bị bao vây, cấm vận. Đại hội VIII của Đảng (6-1996) chủ trương đưa đất nước chuyển sang một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ứng với thời kỳ phát triển mới của đất nước phải có đội ngũ cán bộ ngang tầm cả về bản lĩnh, phẩm chất, trình độ, năng lực, kỹ năng, được chăm lo xây dựng theo một chiến lược dài hạn, bài bản, khoa học, từng bước khắc phục các cách làm chắp vá kiểu tư duy nhiệm kỳ và kinh nghiệm chủ nghĩa trước đây. Vì vậy, Đại hội VIII yêu cầu: “Tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra rất nhiều yêu cầu cho công tác cán bộ. Toàn Đảng phải hết sức chăm lo xây dựng thật tốt đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ kế cận vững vàng, đủ bản lĩnh về các mặt. Sớm xây dựng cho được một chiến lược cán bộ của thời kỳ mới”.
Thể chế hóa đường lối Đại hội VIII của Đảng, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18/6/1997, về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Chiến lược cán bộ đã xác định quan điểm, phương hướng cơ bản, các chính sách và giải pháp lớn để xây dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2020, trước mắt là chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
Những quan điểm đúng đắn, sáng tạo và mục tiêu của Chiến lược cán bộChiến lược cán bộ xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo việc xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ.
Một, phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Công tác cán bộ được đổi mới có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu đó. Mặt khác, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là môi trường thực tiễn để rèn luyện, tuyển chọn và đào tạo cán bộ, nâng cao phẩm chất, kiến thức, năng lực của đội ngũ cán bộ.
Hai, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc.
Ba, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách.
Bốn, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ.
Năm, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên hệ thống chính trị.
Sau 10 năm thực hiện Chiến lược, Kết luận của Hội nghị Trung ương chín khóa X (1-2009) tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của các quan điểm đó, đồng thời làm sâu sắc hơn, bổ sung thành 6 quan điểm. Đó là khẳng định vai trò, ý nghĩa quyết định của cán bộ đối với thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng đảng, xem đây là công tác thường xuyên của Đảng, gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Có thể nói, các quan điểm nêu trên đã đặt việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ mang tính chiến lược dài hạn, được tiến hành bài bản, khoa học, đặc biệt là những vấn đề cốt lõi như: Vị trí, vai trò quyết định của đội ngũ cán bộ trong công tác xây dựng Đảng và toàn bộ sự nghiệp cách mạng; căn cứ xuất phát và mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ; trách nhiệm lãnh đạo của Đảng cũng như các chủ thể khác trong hệ thống chính trị; môi trường thực tiễn và điều kiện, tiền đề trực tiếp cho tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ; vai trò nhân dân trong xây dựng và giám sát cán bộ; các mối quan hệ lớn phải giải quyết như giữa đường lối phát triển đất nước với đường lối cán bộ, giữa xây dựng đội ngũ cán bộ với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, giữa đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và mục tiêu lâu dài, giữa quán triệt quan điểm giai cấp công nhân với mở rộng dân chủ, phát huy đại đoàn kết dân tộc, giữa xây dựng cán bộ với xây dựng tổ chức bộ máy và đổi mới cơ chế, chính sách... Tất cả những vấn đề nêu trên hợp thành hệ quan điểm chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ qua 20 năm qua.
Về mục tiêu: Chiến lược xác định xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược cán bộ phân loại 4 nhóm đối tượng: Cán bộ lãnh đạo Đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý kinh doanh.
Ngoài mục tiêu tổng quát, Chiến lược đề ra một số mục tiêu cụ thể, theo đó mỗi nhiệm kỳ đổi mới khoảng 30-40% số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang và phấn đấu đến năm 2020 số người có trình độ đại học, cao đẳng trở lên bằng khoảng 4% dân số cả nước.
Xác định tiêu chuẩn cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tiêu chuẩn và cơ cấu và là hai yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên chất lượng của đội ngũ cán bộ. Vì vậy, Chiến lược cán bộ xác định tiêu chuẩn phải xuất phát từ chính thực tiễn của quá trình chuyển đổi đất nước từ trạng thái khủng hoảng kinh tế – xã hội sang trạng thái phát triển, nội dung trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ nhà nước chuyên chính vô sản sang nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; từ tình trạng bị bao vây, cấm vận sang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Tiêu chuẩn cán bộ thể hiện trong Chiến lược cán bộ bao hàm cả phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, kiến thức, năng lực và kỹ năng làm việc; cả tiêu chuẩn chung cho mọi loại cán bộ và tiêu chuẩn đặc thù cho từng loại cán bộ.
Tiêu chuẩn chung của người cán bộ trong thời kỳ mới mà Chiến lược cán bộ xác định là phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe… Trong các tiêu chuẩn đối với cán bộ, phải đặc biệt coi trọng cả “đức” và “tài”, trong đó “đức” là gốc. Ngoài các tiêu chuẩn chung đó, cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý, có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, gương mẫu về đạo đức và lối sống. Đặc biệt là với nhóm cán bộ này cần phải trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Đối với cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bí mật quân sự, bí mật quốc gia. Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia, yêu cầu quan trọng là phải có tư duy độc lập, sáng tạo, say mê trong nghiên cứu khoa học, có khả năng tổng kết thực tiễn. Chuyên gia đầu ngành phải có khả năng tập hợp và đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học. Trong khi đó, cán bộ quản lý kinh doanh phải hiểu biết sâu sắc các quan điểm kinh tế của Đảng, có kiến thức về kinh tế thị trường và quản trị doanh nghiệp, có khả năng tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế - xã hội, không lợi dụng chức quyền để tham ô, lãng phí, xa hoa.
Nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược cán bộ và kết quả thực hiện 20 năm quaVề nhiệm vụ, giải pháp: Để xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ vững độc lập, tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược cán bộ đề ra 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cơ bản: 1) Xây dựng quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; 2) Xây dựng các quy chế về công tác cán bộ, trong đó có đánh giá cán bộ, tuyển chọn cán bộ, bầu cử, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ, luân chuyển cán bộ, về chế độ học tập, nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ, chế độ kiểm tra, bảo vệ chính trị nội bộ, phân công, phân cấp quản lý cán bộ; 3) Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ như chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, chính sách sử dụng và quản lý cán bộ, chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần; 4) Đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ.
Nhìn lại 20 năm qua, việc thực hiện Chiến lược cán bộ đã đạt được những kết quả quan trọng sau:
Về thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết: Quán triệt các quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp Nghị quyết Trung ương ba khóa VIII đề ra, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa VIII, IX, X, XI, XII đã ban hành 142 văn bản, trong đó có 07 nghị quyết chuyên đề, 07 chỉ thị, 18 kết luận, 52 quy định và quy chế, 17 thông báo, 41 hướng dẫn về công tác cán bộ (riêng từ đầu khóa XII đến nay, đã ban hành mới 26 văn bản để chấn chỉnh công tác cán bộ). Đó là Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 25/01/2002 của Bộ Chính trị khóa IX về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý; Quyết định số 67 và 68-QĐ/TW, ngày 04/7/2007 của Bộ Chính trị khóa X về phân cấp quản lý, bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử; Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị khóa XI về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Quy định số 89 và 90-QĐ/TW, ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Quy định số 98-QĐ/TW, ngày 07/10/2017 của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ; Quy định số 105-QĐ/TW, ngày 19/12/2017 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử...
Về xây dựng đội ngũ cán bộ: Sau 20 năm thực hiện Chiến lược, đội ngũ cán bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý dưới 40 tuổi công tác ở ban, bộ, ngành trung ương là 6,22%; ở cấp tỉnh là 6,41%; cấp huyện dưới 35 tuổi là 6,5%; tỷ lệ cán bộ lãnh đạo nữ diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý công tác tại địa phương tăng 2 lần trong 3 nhiệm kỳ qua, từ 10% lên 20%; tỷ lệ cán bộ lãnh đạo nữ công tác ở các ban, bộ, ngành trung ương là 13,03%. Nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý được quy hoạch ở các cấp khá dồi dào. Trình độ các mặt của đội ngũ cán bộ được nâng lên đáng kể, số người có trình độ đại học và trên đại học chiếm 7,3% dân số cả nước, trong khi mục tiêu Nghị quyết đề ra là 4%. Việc thực hiện Chiến lược cán bộ, nhất là sự kết hợp giữa các khâu của công tác cán bộ, nên việc chuẩn bị nhân sự cấp ủy ở đại hội Đảng và nhân sự bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp mấy nhiệm kỳ gần đây khá thuận lợi; mỗi nhiệm kỳ đại hội, cấp ủy các cấp đã được đổi mới khoảng 40%, trong khi mục tiêu Chiến lược đề ra đổi mới từ 30 - 40%. Riêng Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đổi mới 42%, khóa X đổi mới 54,7%, khóa XI đổi mới 47% và khóa XII đổi mới là 48%.
Nhìn chung, đa số cán bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, có ý thức rèn luyện, phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín, nhất là cán bộ cấp chiến lược có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có nhiều đóng góp tích cực cho đất nước, một số công trình khoa học có giá trị quốc tế. Theo Sách Trắng Khoa học công nghệ 2015, các công bố quốc tế của Việt Nam trong 15 năm qua tăng bình quân khoảng 17%/năm, nhất là một số lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, trong đó toán tối ưu đứng đầu ASEAN và xếp thứ 19 thế giới, toán học xếp thứ hai ASEAN, vật lý lý thuyết xếp thứ ba ASEAN. Một số lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước những năm qua. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2010 - 2017, vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong Khối Doanh nghiệp Trung ương đạt trên 1.264.175 tỷ đồng, tăng 87%; lợi nhuận trước thuế đạt 801.419 tỷ đồng, tăng 12,5%/năm; nộp ngân sách nhà nước chiếm 26,85% tổng thu ngân sách quốc gia.
Có thể khẳng định rằng, sự trưởng thành, phát triển của đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nói riêng đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước hơn 30 năm qua.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị đông nhưng không mạnh. Nếu năm 1997 có hơn 1,35 triệu cán bộ, công chức, viên chức thì năm 2017, số cán bộ, công chức, viên chức đã tăng gấp đôi với hơn 2,72 triệu người. Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Trong số cán bộ diện Trung ương quản lý ở các ban, bộ, ngành Trung ương từ 56 tuổi trở lên còn cao, chiếm tới 56,86%. Số cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số ở Trung ương chỉ chiếm khoảng 5%, ở cấp tỉnh là 14,7%, thấp hơn so với tỷ lệ chung của cả nước. Cơ cấu lĩnh vực, ngành nghề chưa thật hợp lý. Chẳng hạn, trong đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có tới 60,49% được đào tạo về kinh tế và luật, trong khi chỉ có 16,56% có trình độ về khoa học - công nghệ và hợp tác quốc tế, 8,36% về xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
Chất lượng đội ngũ cán bộ không đồng đều, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ còn xảy ra ở nhiều nơi. Không ít cán bộ, kể cả cán bộ cấp chiến lược chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao. Trình độ tư duy và khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế của một bộ phận cán bộ còn chậm; năng lực tham mưu và tổ chức thực hiện còn hạn chế. Không ít cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa gương mẫu, ngại việc khó, thích nhận việc dễ, có nhiều lợi ích. Một bộ phận không nhỏ cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thậm chí vi phạm pháp luật, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chỉ tính trong 10 năm gần đây, các tập đoàn, tổng công ty trực thuộc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã phát hiện hơn 7.000 vụ vi phạm, trong đó có 280 vụ phải xử lý hình sự, hơn 1.700 cán bộ, đảng viên phải xử lý kỷ luật Đảng và 181 người phải xử lý bằng pháp luật.
Những khuyết điểm, yếu kém của đội ngũ cán bộ đã hạn chế đến khả năng phát huy các tiềm năng, thế mạnh khi thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước; xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; làm suy giảm uy tín, vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Về công tác cán bộ: Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng và từng bước đi vào nền nếp. Các quy trình trong công tác cán bộ ngày càng được hoàn thiện, chặt chẽ, đồng bộ và dân chủ hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng.
Đã có nhiều chuyển biến tích cực trong công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bầu cử, bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ theo hướng mở rộng dân chủ và bảo đảm khách quan, công khai, minh bạch. Lần đầu tiên trong nhiệm kỳ khóa XI đã triển khai một số nội dung nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đó là việc quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng và cơ quan dân cử, kiện toàn các chức danh lãnh đạo Nhà nước ngay sau Đại hội Đảng, tổ chức các lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp và bổ sung, cập nhật kiến thức mới theo chức danh cho phù hợp với từng đối tượng cán bộ.
Ngày càng coi trọng và đẩy mạnh hơn công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Nhiều vụ việc sai phạm đã được làm sáng tỏ và công khai trước dư luận. Việc xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm không có “vùng cấm”, kể cả những cán bộ có sai phạm đã chuyển công tác khác hoặc nghỉ hưu đã có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, ngăn chặn tiêu cực và làm trong sạch một bước đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, công tác cán bộ vẫn còn một số hạn chế, bất cập, thể hiện ở chỗ, một số nội dung trong các nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ chậm được thể chế hóa, cụ thể hóa, có những nội dung đã thể chế hóa, cụ thể hóa nhưng lại thiếu tính khả thi nên kết quả thực hiện chưa cao. Đáng chú ý là sự thiếu đồng bộ, chưa thống nhất trong một số nội dung về công tác cán bộ giữa các cấp, các ngành, giữa quy định của Đảng và Nhà nước khiến cho việc thực hiện khó khăn.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng thiếu chủ động, chưa quyết liệt, không kịp thời trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc thực hiện nên hiệu quả thấp. Có lúc, có nơi chưa tuân thủ nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, có trường hợp lợi dụng nguyên tắc để hợp thức hóa ý đồ, mục đích cá nhân. Thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong công tác cán bộ, nhất là của người đứng đầu chưa được phân định rõ nên khi để xảy ra sai phạm rất khó quy trách nhiệm. Công tác quản lý cán bộ chưa chặt chẽ, còn bộc lộ nhiều sơ hở, chủ yếu thông qua hồ sơ nên chưa nắm chắc cả quá trình công tác của cán bộ. Trên thực tế có không ít trường hợp khi cán bộ xảy ra sai phạm hoặc có đơn thư tố cáo, báo chí phanh phui, thậm chí vi phạm pháp luật thì cấp ủy quản lý cán bộ đó mới biết.
Trong công tác cán bộ vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa chọn được người đủ phẩm chất, năng lực, uy tín. Vẫn có cán bộ năng lực hạn chế, vi phạm kỷ luật, không gương mẫu, để xảy ra mất đoàn kết hoặc không đủ thời gian công tác vẫn được bố trí vào chức vụ cao hơn. Việc bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân cán bộ lãnh đạo vẫn xảy ra ở một số nơi, thậm chí xuất hiện khái niệm bổ nhiệm “thần tốc”, bổ nhiệm “nhanh”. Công tác tuyển dụng cán bộ chất lượng chưa cao, thậm chí một số nơi còn để xảy ra sai phạm, tiêu cực. Những vấn đề nhức nhối đó đã gây bức xúc, bất bình trong dư luận xã hội.
Việc triển khai các khâu trong công tác cán bộ vẫn chưa ngang tầm nhiệm vụ, có lúc, có nơi, có nội dung vẫn còn hình thức. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhưng chậm được khắc phục, nhìn chung kết quả đánh giá vẫn chưa phản ánh đúng thực chất. Phương pháp, quy trình và tiêu chí đánh giá còn bất cập, chưa gắn với kết quả đầu ra và sản phẩm cụ thể. Trong khi đó, công tác quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương, chưa bảo đảm phương châm “động” và “mở”, chủ yếu dựa vào độ tuổi. Có nơi việc quy hoạch còn lỏng lẻo, dàn trải, khép kín nên không đảm bảo chất lượng, không tạo được động lực phấn đấu, ngược lại, có nơi lại quá chặt chẽ, khắt khe nên làm nhụt ý chí phấn đấu.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa có sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp dạy và học, chưa thực sự gắn lý luận với thực tiễn. Đặc biệt là việc buông lỏng quản lý về thời gian lên lớp, lịch học bắt buộc và tự học v.v. dẫn tới chất lượng đào tạo chưa cao.
Chế độ học tập suốt đời chưa trở thành nền nếp, kể cả đối với cán bộ cấp chiến lược. Công tác luân chuyển cán bộ còn một số hạn chế, bất cập nhưng chưa được khắc phục một cách kịp thời. Chủ trương bố trí một số chức danh lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu nhưng chậm được tổng kết để đúc rút kinh nghiệm. Thiếu cơ chế thu hút, trọng dụng nhân tài nên kết quả còn hạn chế và chưa đạt được mục tiêu đề ra. Chủ trương thí điểm một số nội dung đổi mới tổ chức và cán bộ nhiều nơi chưa có sự chỉ đạo triển khai quyết liệt, thiếu nhất quán, hướng dẫn chưa kịp thời, cụ thể; việc tổ chức thực hiện chưa đồng bộ, có nơi làm, nơi không hoặc làm đối phó, nửa vời. Chính sách tiền lương, nhà ở và công tác thi đua, khen thưởng bị ảnh hưởng bởi tư duy bao cấp, cào bằng, còn hình thức, chưa theo quy luật thị trường nên chưa trở thành động lực để cán bộ phấn đấu và toàn tâm, toàn ý công tác.