Đó là một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng để thực hiện thành công “Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 6/9/2013.
Mục tiêu khả thi
Ông Nguyễn Đình Tuấn Lê, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cho rằng, trong nội dung “Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã xác định: Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển và ven biển đóng góp khoản 53 - 55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống người dân vùng biển và ven biển. Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người cao gấp 2 lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước…
Mục tiêu đó là rất khả thi, bởi nước ta có bờ biển dài tới 3.260 km, vùng biển rộng trên 1 triệu km2, lại có trên 3.000 đảo lớn nhỏ gần bờ và xa bờ, nằm trên địa giới hành chính thuộc 28 tỉnh, thành phố. Tiềm năng và lợi thế đó khẳng định vùng biển, đảo của nước ta có vị trí chiến lược rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mô hình nuôi cá lồng bè tại huyện đảo Phú Quý (Bình Thuận) vừa cho hiệu quả kinh tế, vừa thu hút sự quan tâm của khách du lịch. Ảnh: Nguyễn Thanh/TTXVN |
Do đó, phát triển kinh tế biển có ý nghĩa to lớn để Việt Nam phát triển bền vững, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày càng có vai trò to lớn trong tương lai.
Hiện nay, quy mô kinh tế biển và vùng ven biển đang tăng lên nhanh chóng, cơ cấu ngành nghề có những sự thay đổi đột phá cùng với sự xuất hiện của các ngành kinh tế mới. Chỉ tính đến năm 2000, GDP của kinh tế biển và vùng ven biển đã đạt 47% GDP cả nước. Trong đó GDP của kinh tế biển chiếm khoảng 22% tổng GDP cả nước. Các đảo và cụm đảo là thành phần không thể thiếu trong không gian kinh tế biển, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế biển một cách hiệu quả và bền vững. Nhiều đảo và cụm đảo có tiềm năng phát triển kinh tế cao như Phú Quốc, Cát Bà, Vân Đồn…
Để phát huy hơn nữa vai trò của biển, đảo trong phát triển kinh tế, ngay từ bây giờ chúng ta cần đẩy mạnh đánh bắt hải sản xa bờ, điều chỉnh nghề cá ven bờ hợp lý. Phát triển mạnh ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng hài hòa với môi trường. Đồng thời ứng dụng công nghệ sau thu hoạch. Đi đôi với việc phát triển hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá, bao gồm các hoạt động cảng cá, sửa chữa và dóng tàu, ngư cụ; cung cấp các dịch vụ bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; chú ý công tác thông tin liên lạc và cứu hộ cứu nạn trên biển.
Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ ngư dân bám biển, có cơ chế tín dụng ưu đãi cho ngư dân đánh bắt xa bờ đóng tàu vỏ thép, lãi suất vay 3% trong thời gian 10 năm, người vay được thế chấp bằng thân tàu, nếu xảy ra rủi ro Nhà nước cũng sẽ hỗ trợ. Đây là những chính sách thể hiện rõ quyết tâm giúp ngư dân yên tâm đánh bắt xa bờ và bám biển của Nhà nước.
Để giúp ngư dân vươn khơi, bám biển vừa khai thác sản xuất vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo, việc hỗ trợ nguồn vốn giúp cải hoán tàu cũ, đóng mới tàu công suất lớn đang được hệ thống ngân hàng tích cực tham gia. Ngân hàng Nhà nước đã và đang thực hiện gói tín dụng 10.000 tỷ đồng hỗ trợ ngư dân cải hoán tàu cũ, đóng mới tàu công suất lớn vươn khơi xa. Ngoài ra, ngân sách Trung ương và địa phương sẽ đối ứng hỗ trợ 50% lãi suất.
Khẳng định chủ quyền quốc gia
Đảng và Nhà nước chủ trương điều chỉnh Chiến lược phát triển kinh tế biển kết hợp với tăng cường quốc phòng, an ninh trên biển phù hợp với tư duy mới về biển và đại dương. Đẩy mạnh giáo dục quốc phòng, an ninh biển cho toàn dân, coi trọng bồi dưỡng các lực lượng trực tiếp hoạt động trên biển, đảo. Nghiên cứu chiến lược biển của các nước trong khu vực và trên thế giới để đề ra các chính sách phù hợp, nhằm bảo vệ hữu hiệu chủ quyền quốc gia trên biển, đảo.
Hoạt động ngoại giao cũng được đẩy mạnh nhằm đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu quả của Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân trên vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Các lực lượng chuyên trách được kiện toàn, từng bước thực hiện quản lý nhà nước trên các vùng biển, thông qua việc xây dựng các lực lượng và phương tiện để chỉ huy điều hành cứu hộ cứu nạn trên biển. Như hệ thống trinh sát, quan sát, cảnh giới từ xa, thông tin liên lạc hàng hải; thành lập đội tàu tuần tra Biên phòng, Kiểm ngư, Cảnh sát biển, Hải quan…
Hiện tại các cơ quan chức năng cũng đã và đang tiến hành phân vùng biển dựa trên hệ sinh thái, quy hoạch sử dụng biển và hải đảo, nhằm xác định rõ những khu vực dành riêng cho nhiệm vụ quốc phòng. Những khu vực cho phép và khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng như những khu vực phát triển đa mục đích. Nâng cao năng lực quản lý về biển, đảo của chính quyền các huyện đảo, xã đảo để phát triển mạnh kinh tế - xã hội kết hợp với bố trí dân cư, tổ chức lực lượng bảo vệ chủ quyền biển, hải đảo.
Tăng cường sự gắn bó giữa ngư dân, diêm dân, các tầng lớp dân cư vùng biển với các lực lượng vũ trang, trực tiếp là Bộ đội Biên phòng, để giúp nhau sản xuất, nâng cao đời sống văn hóa, tạo dựng thế trận lòng dân. Từng bước dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố và phát huy lực lượng tại chỗ phục vụ chiến lược quốc phòng - an ninh trên biển và hải đảo.