Yếu tố cốt lõi
Quy hoạch phát triển đô thị cần chuyển từ “sống chung với lũ” sang “chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn” trên cơ sở quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên nước, chủ động bảo đảm nguồn nước ngọt cho sinh hoạt của người dân và vùng kinh tế nước lợ, nước mặn. Cùng đó, khai thác hợp lý tiềm năng tài nguyên nước lợ, nước mặn ở vùng ven biển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Mọi dự án, công trình phải được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng trên cả 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi trường được phản biện khách quan, khoa học.
Chia sẻ về giải pháp thích ứng biến đổi khí hậu cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Phó Cục trưởng Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) bà Trần Thị Lan Anh cho rằng, cần tập trung mô hình phát triển hệ thống đô thị - nông thôn. Cụ thể, kết hợp phi tập trung và tập trung “nén” - chủ động “dành chỗ cho nước”; đảm bảo sự cân bằng hệ sinh thái và cấu trúc sông, kênh, rạch hiện có; chọn đất phát triển đô thị, điểm dân cư nông thôn tính đến tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng; phù hợp với đặc điểm cấu trúc địa hình tự nhiên.
Cùng đó, hình thành hệ thống kiểm soát, hạn chế lũ, lụt, ngập úng trong đô thị; hình thành hồ chứa điều tiết ngập lụt, khai thông, nạo vét, cải tạo, gia cố, nắn dòng cho các đường thoát nước đô thị; xây dựng đê, kè, tường chắn lũ, phân dòng lũ, công trình chứa nước ngầm hiện đại quy mô lớn, đồng thời khoanh vùng bảo vệ và có giải pháp tái định cư và di dời dân trong vùng cảnh báo rủi ro và phát triển nhà ở vượt lũ, nhà ở có khả năng chống chịu cao với gió bão.
Trong Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng phê duyệt đã xác định khu vực chịu ảnh hưởng của ngập lụt và đề ra phương hướng xây dựng đô thị cho từng khu vực. Đáng lưu ý, khu vực 1 ngập sâu trung bình từ 2m thuộc các tỉnh: Long An, Đồng Tháp, An Giang; khu vực 2 ngập trung bình 1m – 2m, thuộc các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ. Tại 2 khu vực này cần hạn chế phát triển đô thị quy mô lớn và hạn chế san lấp mặt bằng quy mô diện tích lớn; phát triển đô thị theo tuyến song song với hướng thoát lũ nhằm giảm tác động của lũ đến đô thị.
Khu vực 3 ngập nông thuộc các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ và Hậu Giang cần phát triển đô thị quy mô diện tích lớn; tập trung theo hình thái đô thị nén; dành quỹ đất cần thiết để đào hồ, kết nối kênh rạch đảm bảo tiêu thoát nước; xây dựng mới, cải tạo và vận hành tốt tuyến đê ngăn triều ở cửa sông nhằm hạn chế tác động ngập lụt và xâm mặn đến đô thị.
Khu vực 4 ven biển chịu ảnh hưởng của thủy triều cần phát triển đô thị tại khu vực đất giồng, bãi bồi cao ở ven sông, ven biển. Tại khu vực đô thị xây dựng mật độ cao, dùng phương pháp san đắp tập trung toàn bộ khu vực xây dựng, giải pháp đê bao chống lũ hoặc kết hợp cả hai giải pháp.
Khu vực xây dựng với mật độ thấp, san đắp cục bộ theo vị trí công trình, dành quỹ đất còn lại trong từng khu chức năng để đào hồ, kết nối kênh rạch đảm bảo việc tiêu thoát nước. Khuyến khích phát triển các loại công trình, mô hình ở thích nghi với lũ.
Phó Cục trưởng Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) nhấn mạnh, việc quy hoạch đô thị cần phải có sự đổi mới nhất định theo hướng gắn kết chặt chẽ quy hoạch đô thị với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch ngành quốc gia.
Cấu trúc không gian vùng
Theo bà Trần Thị Lan Anh, việc phát triển đô thị bền vững cũng cần phải chú trọng đến cấu trúc không gian vùng; trong đó, cần tính đến sự suy giảm dòng chảy kiệt, vì có thể ảnh hưởng lớn đến các hành lang đường thủy, từ đó cấu trúc phát triển đô thị dựa trên mạng lưới đường bộ.
Sự hình thành các tuyến đê biển theo Quyết định số 667/QĐ-TTg “về việc phê duyệt Chương trình củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang” kết hợp với đường giao thông ven biển có thể tạo ra một hành lang ven biển mới. Các đô thị hạt nhân giữa sông Tiền - sông Hậu có thể bị ảnh hưởng nặng dưới tác động của lũ dẫn đến phát triển bán tập trung, phân tán. Phân vùng chức năng như vùng giảm lũ (vùng trên), vùng phát triển (vùng giữa), vùng thích nghi (ven biển)…
Mặt khác, tổ chức, phát triển hệ thống đô thị và điểm dân cư nông thôn phù hợp với đặc điểm của hệ sinh thái tự nhiên, điều kiện cụ thể của vùng và từng tiểu vùng sinh thái; rà soát, hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất, bố trí lại dân cư; trong đó, kiểm soát và hạn chế việc xây dựng điểm dân cư tập trung tại vùng sát bờ sông, kênh, rạch có nguy cơ sạt lở cao nhằm tránh rủi ro; dành không gian thoát lũ để đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của người dân.
Đối với thành phố Cần Thơ, Nghị quyết số 59-NQ/TW năm 2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định mục tiêu xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ là thành phố sinh thái, văn minh, hiện đại mang đậm bản sắc văn hóa sông nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long; là trung tâm của vùng về dịch vụ thương mại, du lịch, logistics, công nghiệp chế biến, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giáo dục và đào tạo, y tế chuyên sâu, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao; là đô thị hạt nhân vùng Đồng bằng sông Cửu Long…
Thành phố Cần Thơ định hướng những vùng công năng chủ đạo (vùng đô thị sinh thái Phong Điền – đóng vai trò là vùng dự trữ sinh thái của lưu vực sông Cần Thơ; vùng đô thị ven sông Hậu – đóng vai trò khai thác cảnh quan ven sông đặc trưng) khai thác yếu tố nước cũng như là những vùng đệm giữ năng lực thẩm thấu tự nhiên… Cấu trúc của vùng chức năng được xác định có mối tương hỗ chặt chẽ với nhau, bổ trợ nhau là chuỗi cung ứng phục vụ đô thị. Mô hình này bổ sung vào hệ thống sản xuất lớn những khu vực dịch vụ nông nghiệp đô thị đóng vai trò cảnh quan và cung cấp một phần cho nhu cầu của đô thị.
Tỉnh Hậu Giang có 2 đô thị là thành phố Vị Thanh và thành phố Ngã Bảy có nguy cơ ngập cao với diện tích ngập từ 85% - 90%. Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang Đồng Văn Thanh cho biết, Hậu Giang xác định chủ trương phát triển đô thị nhanh và bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Tỉnh sử dụng công cụ, phương pháp để tích hợp rủi ro liên quan đến khí hậu vào quy hoạch phát triển đô thị và phát triển hạ tầng đô thị, giúp tăng cường khả năng chống chịu.
Cũng theo Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang, để từng bước cụ thể hóa nội dung phát triển bền vững đô thị đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tỉnh Hậu Giang đã đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án “Phát triển đô thị xanh thích ứng với biến đổi khí hậu thành phố Ngã Bảy”. Dự án này có tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 1.211 tỷ đồng (tương đương 44,5 triệu euro) từ nguồn vốn vay AFD và vốn đối ứng của tỉnh, thực hiện từ năm 2023 đến năm 2026.
Mục tiêu của dự án hướng đến việc xây dựng thành phố Ngã Bảy thành đô thị xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu theo hướng hiện đại, tiếp cận các tiêu chuẩn đô thị xanh, đô thị văn minh đối với đô thị trọng điểm của tỉnh để bảo đảm xứng tầm phát triển là một trong những đô thị hạt nhân của tỉnh Hậu Giang.
Tiến sĩ Hồ Công Đức (Đại học Thương mại) cho rằng, để phát triển đô thị bền vững, ngành chức năng cần quy định cụ thể việc xây dựng nhà ở, công trình có liên quan phải ứng phó được với biến đổi của khí hậu. Đặc biệt chú trọng đến hệ sinh thái đô thị, diện tích cây xanh đô thị phù hợp với việc tăng dân số và mật độ xây dựng; giữ lại những hồ điều hòa tại đô thị, giảm bê tông hóa, tạo ra không gian thoáng đãng.
Bên cạnh đó, cần di dời, sắp xếp lại điểm dân cư có nguy cơ ngập úng, lũ quét, sạt lở đất, ngập nặng do triều cường; chú trọng xây dựng hệ thống tiêu nước, xử lý chất thải, tăng khả năng tiêu thoát nước tại đô thị, nhất là đô thị lớn.
Riêng với đô thị ven biển, theo Tiến sĩ Hồ Công Đức, cần có biện pháp trồng cây xanh chống gió bão, trồng rừng ngập mặn chống sạt lở bờ biển, ngập lụt do triều cường. Khuyến khích sử dụng vật liệu xây dựng thân thiện môi trường, làm giảm hiệu ứng nhà kính, phát huy những công trình có khả năng ứng phó tốt với sự tác động trở lại của biến đổi khí hậu như tòa nhà xanh, công trình xanh…