Thành tựu trong cải thiện dinh dưỡng trẻ em
Mỗi bữa ăn ngon, đảm bảo VSATTP của học sinh vùng dân tộc thiểu số là công sức, tình yêu thương của thầy cô trong nuôi dạy và chăm sóc các em. Ảnh tư liệu: Thanh Tùng/TTXVN
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao sức khỏe và dinh dưỡng của người dân, đặc biệt là trẻ em được xác định là nền tảng và nhiệm vụ cấp bách. Thực hiện chiến lược này, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng qua các giai đoạn 2001-2010, 2011-2020 và 2021-2030 với tầm nhìn đến 2045.
Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng khẳng định nỗ lực, cam kết mạnh mẽ của Nhà nước trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng và phát triển xã hội. Các mục tiêu chiến lược đã được đưa vào văn kiện Đại hội Đảng XI, XII, XIII, trở thành định hướng trong chương trình phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương cũng như hoạt động của các đoàn thể, doanh nghiệp và cộng đồng. Nhờ đó, nhiều chương trình, dự án về dinh dưỡng được triển khai, các dự án hợp tác quốc tế mở rộng và vai trò của xã hội được tăng cường, góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng của người dân một cách rõ rệt.
Những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong cải thiện dinh dưỡng trẻ em. Theo Viện Dinh dưỡng quốc gia, tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 17,5% năm 2010 xuống 11,5% năm 2020 và chỉ còn 10,4% năm 2024. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi giảm từ 29,3% năm 2010 xuống 18,1% năm 2024. Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) khu vực đánh giá, mức giảm này là “ấn tượng” và Việt Nam đã đạt mục tiêu Thiên niên kỷ trước 7 năm so với kế hoạch.
Công tác cải thiện dinh dưỡng cũng giúp Việt Nam hoàn thành các Mục tiêu phát triển bền vững, đồng thời đạt mục tiêu đề ra trong chiến lược quốc gia. Tỷ lệ thiếu máu và thiếu vitamin A ở trẻ em dưới 5 tuổi đã cải thiện rõ rệt, từ 27,8% (thiếu máu) năm 2015 xuống 19,6% năm 2020, tỷ lệ thiếu Vitamin A tiền lâm sàng giảm từ 13,1% năm 2015 xuống 9,5% năm 2020.
Bên cạnh đó, dinh dưỡng hợp lý đã góp phần giảm các bệnh thiếu vi chất và tạo nền tảng cho sự phát triển trí tuệ, tầm vóc của trẻ em, đồng thời làm giảm nguy cơ mắc các bệnh mạn tính về sau. Việc đầu tư vào dinh dưỡng sớm như dinh dưỡng 1.000 ngày, bổ sung vi chất... được chứng minh có thể mang lại 5–16 đồng lợi ích kinh tế cho mỗi đồng đầu tư, tùy chương trình và quy mô.
Khoảng cách vùng miền vẫn còn rõ nét
Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Thanh Dương - Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia cho biết, dù có nhiều thành tựu song khoảng cách về dinh dưỡng giữa các vùng miền vẫn là thách thức lớn. Thống kê cho biết, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi tại miền núi phía Bắc cao nhất (37,4%), Tây Nguyên (28,8%), trong khi khu vực xã nghèo lên đến 40,4% năm 2023. Tình trạng thiếu kẽm ở trẻ dưới 5 tuổi vẫn ở mức cao (58% năm 2020), ở phụ nữ mang thai (63,5%), đặt ra nhiều thách thức cho công tác can thiệp dinh dưỡng.
Đặc biệt, trẻ em lứa tuổi học đường đang chịu đồng thời ba gánh nặng: thiếu dinh dưỡng, thừa cân – béo phì và thiếu vi chất. Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em thành thị cao gấp nhiều lần nông thôn và miền núi. Bữa ăn học đường chưa đa dạng, căng tin và các quầy bán hàng gần trường phổ biến thực phẩm chế biến công nghiệp, thức uống có đường, đồ ăn không rõ nguồn gốc, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn thực phẩm.
Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Thanh Dương lý giải nguyên nhân của những khoảng cách này chủ yếu do các quy định pháp luật về dinh dưỡng chưa đồng bộ, kế hoạch hành động thiếu ngân sách, cùng nhận thức chưa đầy đủ của mạng lưới dinh dưỡng tại các địa phương. Nguồn lực hạn chế, các can thiệp dinh dưỡng chỉ triển khai trên diện hẹp và chưa đảm bảo liên tục, đặc biệt ở vùng khó khăn, miền núi. Năng lực của đội ngũ chuyên môn còn nhiều hạn chế, thiếu kiến thức, kỹ năng, phương tiện tuyên truyền, vận động và hướng dẫn dinh dưỡng hợp lý.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Lê Thái Hà, Phó Cục trưởng Cục Phòng bệnh, Bộ Y tế, kinh phí dành cho bữa ăn học đường hiện chưa đủ để triển khai toàn diện và đồng bộ trên cả nước, bởi chủ yếu vẫn dựa vào sự đóng góp của phụ huynh. Điều này dẫn đến tình trạng chênh lệch lớn giữa các gia đình và giữa các vùng, miền. Bên cạnh đó, hầu hết các trường học chưa có cán bộ chuyên trách về dinh dưỡng, trong khi công tác phối hợp liên ngành, truyền thông còn thiếu đồng bộ. Nhận thức cũng như thực hành về dinh dưỡng học đường của một bộ phận phụ huynh, giáo viên, học sinh vẫn chưa đúng và chưa đầy đủ.
Dinh dưỡng học đường: đầu tư cho tương lai
Bữa ăn bán trú góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cho học sinh miền núi Quảng Ngãi. Ảnh tư liệu: Đinh Hương/TTXVN
Đầu tư vào bữa ăn học đường là chiến lược quan trọng để cải thiện dinh dưỡng và phát triển toàn diện cho trẻ. Thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Bộ Y tế triển khai nhiều mô hình cải thiện dinh dưỡng học đường, điển hình là mô hình điểm năm học 2020-2021 tại 10 tỉnh thành, kết hợp giáo dục dinh dưỡng, bữa ăn hợp lý và tăng cường hoạt động thể lực. Kết quả cho thấy, mô hình giúp cải thiện chiều cao, cân nặng, thể lực của học sinh, đồng thời nâng cao nhận thức của nhà trường và phụ huynh.
Tuy nhiên, hiện mới có 47,7% trường mầm non và hơn 30% trường tiểu học tổ chức bữa ăn học đường. Nhiều trường, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa chưa đủ cơ sở vật chất trong khi chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đảm bảo, thực đơn chưa phong phú. Nguồn nhân lực, năng lực triển khai bữa ăn học đường còn hạn chế, đặt ra yêu cầu cần có chính sách đồng bộ, đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo nhân lực và ứng dụng công nghệ số hóa trong quản lý thực đơn, nhằm đảm bảo mỗi học sinh đều được hưởng bữa ăn hợp lý và an toàn.
Giáo sư Nakamura Teiji, Chủ tịch Hiệp hội Dinh dưỡng Nhật Bản nhận định, bữa ăn học đường không chỉ cung cấp năng lượng, dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển của trẻ, còn là một phần của chương trình giáo dục toàn diện về dinh dưỡng và ăn uống. Ở Nhật Bản, nội dung này bao gồm việc tìm hiểu quá trình sản xuất, phân phối, chế biến, nấu nướng, phục vụ và thưởng thức bữa ăn; rèn luyện cách ứng xử khi ăn, lòng biết ơn, tinh thần chia sẻ và thói quen dọn dẹp sau bữa ăn. Đồng thời, học sinh còn được trang bị kiến thức về nhai, nuốt, tiêu hóa, hấp thu, chuyển hóa, mối liên hệ giữa thực phẩm và bệnh tật, cũng như tác động của thực phẩm tới môi trường.
Để xây dựng và triển khai chính sách dinh dưỡng học đường hiệu quả, Phó Giáo sư Zhuifeng Guo, Hiệp hội Quản lý ngành công nghiệp y tế quốc gia (Trung Quốc) cho rằng Việt Nam cần bảo đảm các điều kiện nền tảng, trong đó quan trọng nhất là hoàn thiện khung pháp lý, thể chế hóa chính sách, tăng cường phối hợp liên ngành và tích hợp nguồn lực. Ông nhấn mạnh, nguồn tài chính ổn định, bền vững là yếu tố quyết định, bởi tại một số khu vực, sự thiếu hụt kinh phí đã ảnh hưởng đến việc duy trì chất lượng bữa ăn học đường. Theo đó, giải pháp thành lập quỹ quốc gia chuyên biệt về dinh dưỡng học đường kết hợp ngân sách trung ương, địa phương cùng với sự đóng góp từ xã hội và doanh nghiệp, được xem là hướng đi cần thiết, đúng đắn.
Ở góc nhìn khác, Tiến sĩ Philipp Rösler - nguyên Phó Thủ tướng Đức chia sẻ: Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm từ Đức và Liên minh châu Âu trong việc nâng cao thể lực cho trẻ em. Ông khuyến nghị vận dụng một số giải pháp trọng tâm như: xây dựng chương trình sữa học đường với nguồn cung chủ yếu từ sữa tươi nội địa nhằm hỗ trợ chăn nuôi trong nước, bảo đảm tính bền vững; phát triển bộ tiêu chuẩn dinh dưỡng quốc gia cho bữa ăn học đường trên cơ sở tham chiếu khuyến nghị quốc tế, đồng thời nhân rộng các mô hình thí điểm thành công tại địa phương. Bên cạnh đó, việc tích hợp mô hình vườn trường gắn với giáo dục dinh dưỡng, cũng như triển khai hệ thống “Ghi nhãn chất lượng dinh dưỡng học đường” đi kèm cơ chế giám sát, đánh giá thường xuyên, sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình.