Như chúng ta đều biết, Đại thi hào Nguyễn Du sinh năm 1765 tại phường Bích Câu, kinh đô Thăng Long. Là con của vị Tiến sĩ, Tể tướng Nguyễn Nghiễm, những năm đầu đời Nguyễn Du là cậu ấm sống trong nhung lụa. Nhưng “ngày vui ngắn chẳng tày gang”, mười tuổi mất bố, mười ba tuổi mất mẹ, ông phải sống dựa vào hai người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản và Nguyễn Điều. Năm 1786, cả hai người anh cùng qua đời, lại đúng khi Nguyễn Huệ kéo ra Thăng Long lần thứ nhất, Nguyễn Du phải xa Thăng Long, về quê vợ Quỳnh Phụ, Thái Bình và ở nhờ suốt mười năm, ông gọi đó là mười năm gió bụi (táp tải phong trần).
Chương trình nghệ thuật tại Lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du. Ảnh: Thanh Tùng-TTXVN |
Năm 1796, do vợ mất, Nguyễn Du đưa cậu con trai về quê Nghi Xuân, Hà Tĩnh và ở suốt sáu năm, cho đến năm 1802 thì ra làm quan dưới triều Gia Long. Ông làm tri huyện, tri phủ ở Hưng Yên, Thường Tín... nhưng hình như chưa có dịp trở lại Thăng Long thì đã chuyển vào Phú Xuân, Quảng Bình. Mãi đến đầu năm 1813, trên đường đi sứ Trung Quốc, ông mới có dịp trở lại Thăng Long và ngỡ ngàng, cảm thương trước những thay đổi về phong cảnh và con người. Chúng ta biết rằng, khi Gia Long lên ngôi thì kinh đô nước ta chuyển vào Phú Xuân, còn Thăng Long chỉ là một thành phố, vẫn gọi là Thăng Long nhưng ý nghĩa đã thay đổi: Không còn nghĩa “Rồng bay” mà mang nghĩa mới là “Thịnh vượng”. Gia Long cho xây lại thành mới, cố cung thời vua Lê đã biến mất... Trong chuyến đi này Nguyễn Du sáng tác bốn bài thơ về Thăng Long, hai bài nói về thay đổi cảnh, hai bài nói đổi thay về con người, bài nào cũng hoài cổ, buồn thương.
Trong bốn bài thơ đó, bài “Long Thành cầm giả ca”, tức “Bài ca người gảy đàn ở đất Long Thành” được nhiều người đồng cảm nhất. Có người nói rằng, hai câu “Trải qua một cuộc bể dâu/Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trong Truyện Kiều, là Nguyễn Du nói nỗi lòng mình trước sự đổi thay thời cuộc mà mình từng trải, hơn là “bể dâu” trong cuộc đời của Thúy Kiều. Dùng hình ảnh một người ca nhi, từng học đàn dưới triều Lê, “lên ngôi” thời Tây Sơn và tàn tạ dưới thời Gia Long... tác giả gửi gắm bao nỗi riêng của lòng mình.
Mở đầu bài thơ là lời Tiều dẫn của tác giả dài khoảng ba trăm từ, bằng văn xuôi, có những đoạn như sau:"Người gảy đàn đất Long Thành ấy không rõ họ tên là gì. Nghe nói thuở nhỏ nàng học đàn Nguyễn trong đội ngũ nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cũ kẻ chết, người bỏ đi, nàng lưu lạc ở chợ, ôm đàn hát rong. Những bài nàng gảy đều là những khúc Cung phụng cho vua nghe, người ngoài không hề được biết, cho nên tài nghệ của nàng nổi danh hay nhất một thời.
Hồi còn trẻ, tôi đến kinh đô thăm anh tôi, ở trọ gần hồ Giám, cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con gái đẹp có đến vài chục người. Nàng nổi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn. Nàng hát cũng hay và khéo khôi hài, mọi người say mê, đua nhau ban thưởng, tiền thưởng nhiều vô kể... Sau đó vài năm tôi rời về Nam, mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay tôi phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long Thành, các bạn mở tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ, có gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt, biết tên, chị em thay nhau múa hát.
Rồi nghe một khúc đàn Nguyễn trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gảy đàn thì thấy một chị gầy gò, vẻ tiều tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như quỷ, áo quần mặc toàn vải thô bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như đã quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi ra thì chính người đàn bà trước kia đã gặp.
Than ôi, người ấy sao đến nỗi thế? Tôi bồi hồi không yên, ngửng lên, cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa nay. Người ta trong cõi trăm năm, những sự vinh nhục, buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương vô hạn, nên tôi làm bài thơ sau, để ghi mối cẩm hứng".
Bài ca người gảy đàn đất Long Thành Tên người đẹp, chẳng ai hayGiỏi đàn, dân cứ gọi ngay cô CầmTrong triều trước, học nhiều nămKhúc đàn Cung phụng tiếng tăm nhất đờiTa từng gặp, thuở thiếu thờiĐêm bên hồ Giám tiệc vui, tình cờTuổi đôi mươi, vẻ ngây thơÁo tươi màu đỏ, mặt phô sắc đàoChơi đàn duyên dáng làm saoBàn tay uyển chuyển phả vào năm cungTiếng khoan gió thoảng rừng thôngTrong như tiếng hạc tầng không vọng vềMạnh như sét đánh tan biaBuồn như Trang Tích não nề ngâm ngaNhạc trong đại điện Trung HòaNgười nghe ngồi chật, thẫn thờ, mê manSay sưa quan lính Tây SơnChơi sang đêm ấy còn hơn vương hầuBọn Ngũ Lăng thấm vào đâuCoi thường tiền bạc thi nhau thưởng trànNgỡ như báu vật Tràng AnTrăm xuân đúc lại một nàng mà thôi.Chuyện qua hai chục năm trờiTây Sơn bại trận, ta thời vào NamLong Thành không dịp ghé thămNói gì cô gái ca cầm ngày xaLần này Tuyên phủ vì taMở bày tiệc tiễn, kỹ ca được mờiĐều là gái trẻ xinh tươiChỉ riêng cuối chiếu một người hoa râmNước da vàng vọt thất thầnMặt mày phờ phạc không lần điểm tôNhìn người ấy, có ai ngờGiỏi đàn bậc nhất kinh đô một thời.Khúc xưa từng tiếng bồi hồiTa nghe tê tái, lệ rơi đáy lòngChuyện xưa, hai chục năm ròngNgười đêm hồ Giám tiệc tùng là đây?Thời gian: Thành chuyển, người thayNương dâu, bãi bể ai hay sự đờiTây Sơn cơ nghiệp tan rồiChỉ còn sót lại một người kỹ caTrăm năm thấm thoắt trôi quaThương tâm chuyện cũ lệ nhòa áo khănĐầu ta bạc trắng ai bànTrách gì người đẹp dung nhan héo sầuMở trừng đôi mắt nhìn lâuGặp nhau chẳng nhận được nhau, thật buồn!