Chỉ trong vòng chưa đầy 10 ngày từ 23-31/5/2011 thông qua việc xin tạm ứng, PVC đã rút của PVN 1.000 tỷ đồng trên tổng số 1.312 tỷ đồng và 6,6 triệu USD tạm ứng trái quy định, sau đó PVC đã sử dụng không đúng mục đích số tiền lên tới 1.115 tỷ đồng gây thiệt hại cho PVN 119,8 tỷ đồng. Việc chỉ định nhà thầu là PVC thiếu năng lực về kinh nghiệm cũng như khả năng tài chính để thực hiện dự án đã để lại nhiều hệ lụy rất lớn.
Chưa đủ năng lực nhưng vẫn được giao công trình trọng điểm quốc gia Bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm tại phiên tòa. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN |
Viện kiểm sát nhận định: Năm 2010, do việc đầu tư dàn trải, không hiệu quả dẫn tới tình hình tài chính của PVC lâm vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng. Thay vì tìm các giải pháp căn cơ để tháo gỡ khó khăn cho PVC, PVN lại giao cho PVC gánh vác thêm các khoản đầu tư có nợ xấu và thua lỗ của 5 dự án tại Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) với giá trị lên tới 793 tỷ đồng, làm mất cân đối dòng tiền đầu tư gần 1.000 tỷ đồng.
Mặc dù biết rõ PVC đang gặp khó khăn rất lớn về tài chính và chưa có năng lực, kinh nghiệm để thi công những Dự án nhiệt điện lớn nhưng bị cáo Đinh La Thăng với vai trò là Chủ tịch Hội đồng thành viên của PVN vẫn giao cho PVC thực hiện gói thầu EPC dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 - một công trình trọng điểm quốc gia theo hình thức chỉ định thầu.
Mặt khác, trong khi dự án đầu tư hiệu chỉnh chưa được phê duyệt; chưa có thiết kế FEED, tổng dự toán, thiết kế bản vẽ thi công, hồ sơ yêu cầu, hồ sơ dự thầu và một loạt các thủ tục pháp lý khác có liên quan, bị cáo Đinh La Thăng vẫn chỉ đạo cấp dưới ký kết Hợp đồng EPC số 33 ngày 28/2/2011 và Hợp đồng chuyển đổi chủ thể số 4194 ngày 13/5/2011 với giá trị lên tới 1,2 tỷ USD.
Bên cạnh đó, để có tiền chi tiêu và chiếm hưởng cá nhân, Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị PVC) cùng Vũ Đức Thuận (nguyên Tổng Giám đốc PVC) đã đề ra chủ trương và giao cho Nguyễn Anh Minh (nguyên Phó Tổng giám đốc PVC) chỉ đạo Lương Văn Hòa (nguyên Giám đốc Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch thuộc PVC) cùng cấp dưới lập khống hồ sơ thiết kế, dự toán, thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán 4 hạng mục phụ trợ của dự án Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 và dự án Nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch 1 rút số tiền 13.066.262.471 đồng từ Ban điều hành và chia nhau.
Hậu quả của vụ án là hết sức nghiêm trọng
Theo đại diện Viện Kiểm sát, số tiền thiệt hại hơn 119 tỷ đồng và 13 tỷ đồng tiền mà các bị cáo tham ô chưa nói được hết tính chất mức độ nghiêm trọng của vụ án. Ngoài việc gây thiệt hại ban đầu xác định được, việc làm trên của các bị cáo còn làm thời gian thực hiện dự án kéo dài gấp đôi, làm đội vốn đầu tư gần chục ngàn tỷ đồng, số tiền nếu phạt theo tiến độ của hợp đồng đã lên tới hàng trăm triệu USD; khi có vốn tạm ứng thì sử dụng tùy tiện, trái nguyên tắc gây thất thoát lớn vốn nhà nước.
Viện kiểm sát cho rằng, tại phiên tòa hầu hết các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Tuy nhiên, vẫn còn một số bị cáo còn quanh co, chối tội, không thừa nhận trách nhiệm, hậu quả do hành vi của mình gây ra.
Cụ thể, bị cáo Đinh La Thăng không thừa nhận trách nhiệm như cáo buộc của Viện kiểm sát, bị cáo cho rằng, trong quá trình triển khai Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 để xảy ra các sai phạm trong việc ký kết hợp đồng và tạm ứng cho PVC là trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân trực tiếp thực hiện. Bị cáo chỉ thừa nhận trách nhiệm là người đứng đầu, do sức ép về tiến độ nên nôn nóng, chưa chỉ đạo kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên.
Bị cáo Phùng Đình Thực (nguyên Tổng Giám đốc PVN) cũng cho rằng sau này bị cáo mới biết Hợp đồng EPC số 33 là không đúng quy định, không chỉ đạo việc tạm ứng do đã phân cấp phụ trách tài chính cho bị cáo Nguyễn Xuân Sơn.
Bị cáo Nguyễn Quốc Khánh (nguyên Phó Tổng Giám đốc PVN) khai chỉ sau này mới biết Hợp đồng EPC số 33 là trái quy định, bị cáo không phụ trách về tài chính nên không chỉ đạo việc chi tạm ứng trái nguyên tắc. Bị cáo Nguyễn Ngọc Quý cho rằng việc phê duyệt Hợp đồng EPC số 33, ký một số Quyết định đầu tư góp vốn và các phiếu ý kiến là trên cơ sở nội dung tờ trình của cấp dưới. Bị cáo Lê Đình Mậu chỉ thừa nhận hành vi ký 6 Ủy nhiệm chi số tiền 817 tỷ đồng cho Ban Quản lý dự án là thực hiện theo Quyết định của PVN do bị cáo Nguyễn Xuân Sơn ký…
Đối với bị cáo Trịnh Xuân Thanh không thừa nhận việc chỉ đạo sử dụng sai mục đích nguồn vốn tạm ứng, không thừa nhận việc đề ra chủ trương, chỉ đạo việc lập khống hồ sơ thi công để rút và chiếm đoạt tiền của PVC.
Đại diện Viện kiểm sát nhận định: Căn cứ vào các tài liệu đã thu thập được, như các văn bản có chữ ký hoặc bút tích của các bị cáo, biên bản các cuộc họp, lời khai của các bị cáo khác trong cùng vụ án, lời khai của nhân chứng, kết luận giám định cùng các tài liệu khác… có đủ cơ sở khẳng định việc Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố các bị cáo về các tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại Điều 165, khoản 3 và tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại Điều 278, khoản 4 - Bộ luật Hình sự năm 1999 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Bị cáo Trịnh Xuân Thanh quanh co, chối tội Trong bản luận tội, công tố viên cho rằng: Đối với hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, trong quá trình thực hiện Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, bị cáo Trịnh Xuân Thanh đã chỉ đạo bị cáo Vũ Đức Thuận ký Hợp đồng EPC số 33 không đúng pháp luật để PVC được nhận và sử dụng tiền tạm ứng trái quy định gây thiệt hại cho Nhà nước.
Đối với hành vi tham ô tài sản, bị cáo Trịnh Xuân Thanh là người giữ vai trò chính trong việc đề ra chủ trương, cùng Vũ Đức Thuận chỉ đạo Nguyễn Anh Minh và Lương Văn Hòa lập khống hồ sơ, rút tiền từ Ban điều hành dự án Vũng Áng - Quảng Trạch để chia nhau sử dụng cá nhân. Bị cáo Thanh phạm hai tội đều thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng rất xấu trong dư luận.
Sau khi phạm tội, bị cáo Thanh bỏ trốn gây khó khăn, cản trở việc điều tra. Trong suốt quá trình từ các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo luôn thể hiện thái độ không thành khẩn, quanh co, chối tội. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là gia đình đã tự nguyện nộp số tiền 2 tỷ đồng để khắc phục hậu quả cho bị cáo. Tuy nhiên, cũng cần phải xử lý thật nghiêm khắc mới đảm bảo được tính răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.
Bị cáo Đinh La Thăng mặc dù biết rõ PVC không đủ năng lực và kinh nghiệm, nhưng để giúp cho PVC, lấy lý do sức ép về tiến độ, bị cáo đã chủ động đề ra chủ trương và chỉ định PVC thực hiện gói thầu EPC Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 trái với Nghị quyết của Hội đồng thành viên, chỉ đạo PVPower ký Hợp đồng EPC số 33 với PVC trái quy định. Sau đó, bị cáo Đinh La Thăng chỉ đạo cấp dưới tại PVN và Ban Quản lý dự án căn cứ hợp đồng này tạm ứng cho PVC để bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm tại PVC sử dụng không đúng mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước.
Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, gây tổn hại rất lớn về mặt kinh tế cũng như xã hội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo mới chỉ nhận trách nhiệm của người đứng đầu mà chưa nghiêm túc nhận ra những việc làm trái pháp luật của mình. Do vậy, cần thiết phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo.
Quang cảnh phiên tòa. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN |
Tuy nhiên, xét về các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, thấy bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác, đã nhận một phần trách nhiệm về các sai phạm trong việc chỉ đạo thực hiện Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 với tư cách là người đứng đầu nên có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Phùng Đình Thực mặc dù biết rõ PVC không đủ năng lực và kinh nghiệm nhưng bị cáo vẫn cùng bị cáo Đinh La Thăng và Nguyễn Quốc Khánh chỉ đạo việc ký Hợp đồng EPC trái quy định, sau đó chỉ đạo cấp dưới tại PVN và Ban Quản lý dự án tạm ứng cho PVC để Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm sử dụng không đúng mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước…