Dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 dự kiến xây dựng tại thôn Vĩnh Trường, xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam. Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN
Đảm bảo sự an toàn, an ninh và sự ủng hộ của quốc tế
Tiến sĩ Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho biết: Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và Việt Nam có lịch sử hợp tác lâu đời, với việc IAEA cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nhân sự và phát triển cơ sở hạ tầng để giúp Việt Nam ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình. Việt Nam hợp tác với IAEA tập trung vào việc cải thiện an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân, phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện cơ sở hạ tầng an toàn, an ninh cùng với đó là những ứng dụng năng lượng nguyên tử trong phát triển kinh tế-xã hội.
Việt Nam là thành viên chính thức của IAEA từ năm 1957, đã tích cực tham gia hoạt động trong các công ước quốc tế do IAEA bảo trợ, được chia theo ba lĩnh vực: An toàn hạt nhân, an ninh hạt nhân và không phổ biến vũ khí hạt nhân. Ngoài các công ước quốc tế mà IAEA bảo trợ, có thể kể đến các thỏa thuận, hiệp định hợp tác về hạt nhân dân sự mà Việt Nam đã ký song phương với một số quốc gia như Nga, Nhật, Mỹ... Các thỏa thuận, hiệp định song phương này rất quan trọng, là nền tảng trong việc hợp tác triển khai xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2.
Theo Tiến sĩ Trần Chí Thành, việc tham gia các công ước quốc tế về hạt nhân đảm bảo sự an toàn, an ninh hạt nhân và sự ủng hộ của quốc tế khi Việt Nam triển khai các dự án điện hạt nhân. Trước đó, khi tiếp quản, khôi phục và mở rộng Lò phản ứng nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt năm 1975, Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (1982) để tạo thuận lợi cho triển khai Hiệp định hỗ trợ của Liên Xô trong việc khôi phục và mở rộng Lò phản ứng nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt.
Theo Điều 3 của Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân, mỗi quốc gia không có vũ khí hạt nhân được yêu cầu ký kết một thỏa thuận Thanh sát hạt nhân với IAEA và Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định Thanh sát năm 1989, có hiệu lực năm 1990; Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân năm 1997; Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện năm 2006 và Nghị định thư bổ sung cho Hiệp định Thanh sát ký năm 2007 và phê chuẩn năm 2012. Thanh sát hạt nhân của IAEA có mục tiêu ngăn chặn sự lan truyền vũ khí hạt nhân bằng cách phát hiện sớm việc sử dụng sai mục đích vật liệu hoặc công nghệ hạt nhân.
Đối với lĩnh vực an toàn hạt nhân, an ninh hạt nhân, Việt Nam đã tham gia Công ước thông báo sớm về tai nạn hạt nhân năm 1987; Công ước trợ giúp trong trường hợp tai nạn hạt nhân hoặc khẩn cấp phóng xạ năm 1987; Công ước An toàn hạt nhân năm 2010; Công ước chung về An toàn quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn quản lý chất thải phóng xạ năm 2013; Công ước bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân năm 2012; Công ước quốc tế về Ngăn chặn hành động khủng bố hạt nhân năm 2016.
Việt Nam cũng đã ký thỏa thuận hợp tác về hạt nhân dân sự với Mỹ. Hiệp định Việt Nam - Mỹ được ký kết trên tinh thần của mục 123 về “Hợp tác với các quốc gia khác” trong Luật Năng lượng Nguyên tử năm 1954 của Mỹ, nhằm điều chỉnh các giao dịch thương mại trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân và tạo khung pháp lý để tăng cường hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác Mỹ trong các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, phát triển và ứng dụng năng lượng nguyên tử, đặc biệt trong phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam. Hiệp định là cơ sở để Việt Nam có thể tiếp nhận công nghệ hạt nhân tiên tiến, hiện đại cho các dự án điện hạt nhân của Việt Nam. Sau thời điểm Hiệp định Việt Nam - Mỹ được ký kết, Mỹ, Anh và một số nước châu Âu đã tư vấn hỗ trợ cho Việt Nam thực hiện dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia và là thành viên Công ước An toàn hạt nhân (Công ước CNS) từ năm 2012. Theo đó các quốc gia thành viên phải thực hiện các bước thích hợp để đảm bảo các đánh giá an toàn toàn diện và có hệ thống được thực hiện trước khi xây dựng và đưa vào vận hành một cơ sở hạt nhân (bao gồm nhà máy điện hạt nhân) và trong suốt vòng đời của cơ sở hạt nhân đó.
Không để chậm chễ về thủ tục khi thực hiện dự án điện hạt nhân
Tiến sĩ Lê Chí Dũng, chuyên gia về pháp quy hạt nhân, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho biết: Việt Nam cũng như các quốc gia lần đầu phát triển điện hạt nhân nên nghiên cứu, xem xét để có thể tham gia đầy đủ các công ước quốc tế về hạt nhân. Theo đó, Việt Nam cần tham gia các công ước theo khuyến cáo trong "Sổ tay Luật hạt nhân của IAEA về bồi thường thiệt hại hạt nhân gồm:
Công ước Viên về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân 1963 (Công ước Viên); Công ước Paris về trách nhiệm của bên thứ ba trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân 1960 (Công ước Paris); Nghị định thư chung về việc áp dụng Công ước Viên và Công ước Paris; Công ước Viên sửa đổi 1997 (là bản tích hợp của Công ước Viên 1963 và Nghị định thư sửa đổi 1997); Công ước bồi thường bổ sung đối với thiệt hại hạt nhân 1997 (CSC).
Tiến sĩ Lê Chí Dũng chia sẻ, vào tháng 2/2012, khi Việt Nam ký Hiệp định hợp tác đưa nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng của Lò phản ứng Đà Lạt về Nga, đối tác đã yêu cầu quy định về việc áp dụng Công ước Viên về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân nếu có trong quá trình thực hiện (dù Việt Nam chưa là thành viên của Công ước Viên). Nga cũng có yêu cầu tương tự với Việt Nam về việc áp dụng Công ước Viên khi hai bên ký Hợp đồng thực hiện dự án xây dựng Trung tâm Khoa học và công nghệ hạt nhân quốc gia với lò phản ứng nghiên cứu mới.
Bên cạnh đó, trong quá trình Việt Nam hợp tác với Nga thực hiện dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và với Nhật Bản thực hiện dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 2, Nga khuyến cáo Việt Nam tham gia Công ước Viên, còn Nhật Bản khuyến cáo Việt Nam tham gia Công ước bồi thường bổ sung đối với thiệt hại hạt nhân (Công ước CSC). Vì vậy, khi Việt Nam chính thức tái khởi động dự án điện hạt nhân thì cần đáp ứng yêu cầu theo thông lệ quốc tế để không chậm trễ về thủ tục hợp tác với các đối tác trong thực hiện dự án điện hạt nhân ở Việt Nam.