Đâu là căn nguyên của vấn đề và làm sao để ngăn chặn được ma trận sở hữu chéo ngân hàng sẽ tiếp tục diễn ra? Phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với GS.TS Hoàng Văn Cường - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân xoay quanh vấn đề trên.
Nhiều ý kiến cho rằng sở hữu chéo không phải là vấn đề đơn giản. Đâu là căn nguyên của tình trạng này thưa ông?
Sở hữu chéo đang là vấn đề nhức nhối hiện nay. Đó là khi một người tham gia sở hữu tại hai tổ chức tín dụng hoặc đồng thời sở hữu tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, dẫn đến việc có thể bắt tay, thông đồng, luân chuyển vốn trái pháp luật.
Luật pháp quy định không cho phép những người như Chủ tịch của hội đồng thành viên hoặc thành viên của hội đồng thành viên, những người giữ cổ phần lớn của tổ chức này lại đồng thời sở hữu một tổ chức khác. Nhưng trên thực tế, người ta có rất nhiều cách để lách luật như: nhờ người đứng tên sở hữu hộ hoặc thậm chí các thành viên có quen biết trong gia đình thành lập các công ty mẹ - công ty con; thậm chí là thuê người không quen biết gì để đứng danh là chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc công ty còn toàn bộ quá trình điều hành, vận động là do một người thực hiện.
Sở hữu chéo bị núp bóng che đậy bởi những quan hệ như trên nên không dễ dàng gì phát hiện ra được.
Vậy tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống tổ chức tín dụng kéo theo những hệ lụy nào, thưa ông?
Để đảm bảo an toàn hệ thống, đã có những quy định về hạn mức cấp tín dụng cho mỗi cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên khi sở hữu chéo, sẽ xảy ra tình trạng lũng đoạn ngân hàng, khiến ngân hàng cho doanh nghiệp vay không theo các quy định hoặc không trực tiếp dồn tiền cho doanh nghiệp vay mà có thể thông qua các doanh nghiệp con rồi từ đó, doanh nghiệp con lại dồn tiền về cho doanh nghiệp mẹ. Như vậy, thực chất ngân hàng huy động tiền gửi của người dân xong lại dồn hết tiền cho vay doanh nghiệp sân sau nào đó.
Rủi ro sẽ còn tăng cao hơn nữa khi doanh nghiệp không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ hoặc khoản nợ rơi vào nợ xấu. Khi đó, người ta có thể dùng chính ngân hàng để cho doanh nghiệp trá hình – doanh nghiệp con vay tiền, sau đó doanh nghiệp này lại chuyển tiền về cho doanh nghiệp mẹ, từ đó tiền lại trở về ngân hàng để trả nợ. Tóm lại, dòng tiền của ngân hàng lại về ngân hàng nhưng thực ra nợ vẫn chưa được trả.
Ngoài ra, giữa các tổ chức tín dụng khi sở hữu chéo còn xảy ra tình trạng lấy vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn vượt quá quy định dẫn đến nguy cơ mất an toàn hệ thống tín dụng rất cao. Hệ lụy là khi tổ chức tín dụng khủng hoảng sẽ không có khả năng hoàn trả vốn cho người dân và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
Việc điều chỉnh tỷ lệ sở hữu, giới hạn cấp tín dụng đã được đưa vào Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Liệu đây có phải giải pháp căn cơ giúp giải quyết tình trạng sở hữu chéo không? Vậy ông có đưa ra các giải pháp hay kinh nghiệm của các nước trên thế giới để làm sao ngăn chặn được ma trận sở hữu chéo ngân hàng sẽ tiếp tục diễn ra?
Về lý thuyết, đây là biện pháp đúng và căn cơ để hạn chế tình trạng sở hữu chéo. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng người ta có thể nhờ người trong gia đình, người thân quen đứng ra sở hữu cổ phần hoặc dùng các chiêu trò phân chia tài sản, lập ra nhiều công ty con để vay vốn rồi gom lại thành một khoản vay lớn về doanh nghiệp sân sau.
Như vậy về mặt sổ sách, pháp lý, tỷ lệ sở hữu, hạn mức cấp tín dụng vẫn không vượt quá giới hạn dù luật đã quy định giảm tỷ lệ này xuống. Nhưng thực tế, quyền lực chi phối hoạt động ngân hàng vẫn theo điều hành của một người nào đó và dòng vốn vẫn tập trung vào một doanh nghiệp sân sau.
Vì vậy, song song với việc giảm kiểm soát các tỷ lệ trên, còn cần tăng cường kiểm soát để phát hiện sớm các giao dịch có liên quan đến nhau, lặp đi lặp lại.
Ví dụ dòng tiền từ ngân hàng cấp về công ty A lại được công ty A chuyển sang công ty B, rồi ngay lập tức lại dồn về công ty C hoặc tiền chuyển cho ngân hàng A' nào đó lại vẫn về công ty C.
Khi những giao dịch lặp đi lặp lại đó bị phát hiện sẽ lộ ra những vấn đề trong lưu chuyển dòng tiền.
Đồng thời, chính những người trong ban kiểm soát của ngân hàng cũng phải tăng cường vai trò kiểm soát độc lập trong nội bộ. Nếu cứ để chủ sở hữu thâu tóm, điều phối hoạt động ngân hàng thì khi xảy ra rủi ro, ban kiểm soát cũng phải gánh chịu trách nhiệm.
Chưa kể tới xu hướng chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Cần ứng dụng chuyển đổi số vào quản lý để giúp sớm phát hiện các quan hệ về mặt sở hữu, từ đó đưa ra cảnh báo, phán đoán sớm và ngăn chặn sớm các quan hệ thân hữu, bắt tay với nhau để thực hiện thao túng và hạn chế sở hữu chéo.
Sở hữu chéo không phải câu chuyện của riêng Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trên thế giới có nhiều phương thức huy động vốn nhất là huy động qua thị trường vốn, trái phiếu, chứng khoán... chứ không phụ thuộc duy nhất vào nguồn vốn ngân hàng. Do đó, mức độ mong muốn, tìm cách sở hữu chéo không quá cấp thiết.
Song song đó là các quy định pháp luật xử lý rất nghiêm đối với các cá nhân nhận sở hữu hộ và cả người nhờ nhận sở hữu nên không dễ dàng gì sử dụng những quan hệ thân tín để thực hiện việc sở hữu trá hình.
Trân trọng cảm ơn ông!