Sự kiện do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Viện FNF Việt Nam tổ chức nhằm cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về những cơ hội kinh doanh với thị trường Đức từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (Hiệp định EVFTA); đồng thời, giới thiệu cuốn Sổ tay doanh nghiệp “Tận dụng EVFTA để xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Đức” và ra mắt Chuyên trang thông tin trực tuyến về xuất nhập khẩu Việt Nam - Đức do VCCI thực hiện.
Trong nhiều năm qua, Đức luôn là một trong những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Từ góc độ xuất khẩu, Đức là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 tại Liên minh châu Âu (EU), thứ 7 thế giới của Việt Nam năm 2020. Về nhập khẩu, Đức là nguồn cung hàng hóa lớn thứ 2 EU, thứ 14 thế giới của chúng ta. Việt Nam và Đức có cơ cấu sản phẩm bổ sung cho nhau là chủ yếu. Việt Nam có thế mạnh về các sản phẩm công nghiệp nhẹ, sản phẩm tiêu dùng và nông sản thực phẩm, và có nhu cầu cao với nhiều nguyên liệu và máy móc phục vụ sản xuất. Trong khi đó, Đức là cường quốc công nghiệp nặng, xuất khẩu nhiều nguyên nhiên liệu và máy móc thiết bị và cũng nhập khẩu nhiều hàng tiêu dùng, nông sản thực phẩm.
Khai mạc hội thảo, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhấn mạnh, sau 10 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược Việt - Đức (2011 - 2021), thương mại song phương giữa hai bên đã tăng 80%, từ 5,6 tỷ đô la Mỹ (USD) năm 2011 lên 10 tỷ USD năm 2020. Đặc biệt, xuất khẩu từ Việt Nam sang Đức trong giai đoạn này cũng đạt mức tăng trưởng khoảng 11,5%/năm. Tuy nhiên, mức tăng này vẫn còn thấp so với tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới trong cùng giai đoạn (14,9%/năm). Trao đổi thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Đức hiện chỉ chiếm 1,83% trong tổng thương mại của Việt Nam, thấp hơn nhiều so với tỷ trọng 24,41% với Trung Quốc, 16,65% với Mỹ, 12,11% với Hàn Quốc...
Là một FTA thế hệ mới với mức độ tự do hóa cao, EVFTA tiến tới xoá bỏ phần lớn hàng rào thuế quan và tiết giảm các rào cản phi thuế quan giữa Việt Nam với EU; trong đó, có Đức. Từ đó mang tới kỳ vọng về một sự tăng trưởng đột phá trong quan hệ thương mại song phương Việt Nam - Đức. Cụ thể, hiệp định sẽ dỡ bỏ 99,2% số dòng thuế cho hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Đức sau 7 năm và cũng xoá bỏ 98,3% số dòng thuế cho các sản phẩm của Đức nhập khẩu vào thị trường Việt Nam sau 10 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực.
EVFTA cũng bảo hộ chỉ dẫn địa lý tự động cho 39 sản phẩm của Việt Nam và 12 sản phẩm của Đức giúp các sản phẩm này gia tăng giá trị và thương hiệu khi tiếp cận thị trường mỗi bên. Ngoài ra, hiệp định cũng bao gồm rất nhiều cam kết khác về hải quan, vệ sinh dịch tễ, rào cản kỹ thuật, phòng vệ thương mại, thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ, mua sắm công... giúp thiết lập nên các tiêu chuẩn và nguyên tắc thuận lợi hoá thương mại, tạo điều kiện dễ dàng cho hàng hoá của Việt Nam và Đức tiếp cận thị trường của nhau.
Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam được đánh giá là có cơ hội lớn từ EVFTA bao gồm giày dép, quần áo, thủy sản, các sản phẩm nhựa, hoa quả và các loại hạt và một số sản phẩm nông sản khác như gạo, ngô ngọt, tỏi, nấm… Theo chiều ngược lại, doanh nghiệp cũng được đánh giá là có lợi thế khi nhập khẩu các sản phẩm thế mạnh của Đức nhờ EVFTA, đặc biệt là xe cộ, máy móc thiết bị điện, dược phẩm, các sản phẩm nhựa, sắt thép, Nhiên liệu dầu khoáng, thịt động vật và gia cầm, sữa và các sản phẩm từ sữa, rượu bia và đồ uống…
Tuy nhiên, để biến những cơ hội tiềm năng nói trên thành hiện thực, các doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu đầy đủ các nội dung cam kết của Việt Nam và Đức trong EVFTA. Cùng với đó, các doanh nghiệp cả xuất khẩu và nhập khẩu đều cần có hiểu biết kỹ càng về quy mô, nhu cầu, thị hiếu của thị trường và các quy định xuất nhập khẩu của hai bên để hỗ trợ các doanh nghiệp làm điều này.
VCCI cũng đã tổ chức biên soạn Sổ tay doanh nghiệp “Tận dụng EVFTA để xuất nhập khẩu hàng hoá giữa Việt Nam với thị trường Đức”; đồng thời, xây dựng Chuyên trang thông tin điện tử về thị trường Đức để giúp thông tin và tư vấn cho doanh nghiệp về các cơ hội từ EVFTA và làm thế nào để kinh doanh thành công với thị trường Đức.
Tại hội thảo, bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công Thương đã cung cấp thông tin về những kết quả khả quan trong năm đầu thực thi EVFTA từ góc độ xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU nói chung, Việt Nam - Đức nói riêng. Đáng chú ý, nhiều sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã tận dụng được các cơ hội từ EVFTA trong một năm qua để tăng mạnh xuất khẩu sang thị trường Đức như máy móc và thiết bị tăng 83,6%, phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 71,6%, sắt thép tăng 53,2%, máy tính và điện tử tăng 34%, thủy sản tăng15,5%.
Đại diện VCCI, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập đã giới thiệu chi tiết các cơ hội từ EVFTA cho xuất nhập khẩu với thị trường Đức; cũng như yêu cầu cụ thể về thủ tục xuất nhập khẩu để tận dụng các cơ hội này. Khai thác cơ hội thị trường Đức từ EVFTA là chủ đề nằm trong chuỗi các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng cơ hội tại các thị trường đối tác FTA của VCCI. Trong thời gian tới, với sự phối hợp cùng các đối tác, VCCI sẽ tiếp tục triển khai các hoạt động thông tin về các cơ hội từ các FTA mới ký kết và thực thi của Việt Nam tại các thị trường đối tác và theo các ngành, lĩnh vực cụ thể với mức độ sâu hơn, chi tiết hơn và đầy đủ hơn để từng ngành, từng doanh nghiệp có thể chuẩn bị hành trang kỹ càng hơn cho việc hiện thực hóa các cơ hội từ các FTA đầy tiềm năng mà Việt Nam đã và đang tham gia.
Vậy làm thế nào để doanh nghiệp có thể kinh doanh thành công với thị trường Đức – một trong những thị trường phát triển khó tính nhất thế giới, ông Phạm Hùng Tiến, Phó Giám đốc Viện FNF Việt Nam cho biết, phía Đức nhìn nhận Việt Nam là thị trường nhiều cơ hội; trong đó, có một số lĩnh vực mới như về năng lượng. Họ biết rất rõ rằng, ở Việt Nam, chỗ nào có nhu cầu phát triển năng lượng xanh và nhờ vào kỹ thuật của Đức, trong suốt nhiều năm, họ cũng đã có mấy thiết bị đo lượng gió hay còn gọi là phong điện để có thể khai thác phương tiện Việt Nam.
Các doanh nghiệp của Đức, trong thời gian tới, rất quan tâm đến các dự án phát triển điện, điện gió tại Bình Thuận và Ninh Thuận. Đây cũng là những yếu tố để thúc đẩy thương mại. Hay như, lĩnh vực đào tạo, dạy nghề, dù đây không phải là lĩnh vực mới tại Việt Nam. Với hơn 20 năm cùng hợp tác, phía Đức cho rằng, Việt Nam có lực lượng lao động trẻ dồi dào nhưng nếu năng lực tay nghề được nâng lên có thể sẽ làm được thêm nhiều việc khác nữa.
Theo ông Tiến, để đón nhận được các dự án đầu tư mới như cơ khí chế tạo để từ đó tạo ra được những giá trị gia tăng hoặc phát triển các doanh nghiệp nội địa trở thành các nhà cung ứng đủ khả năng kết nối với các doanh nghiệp đầu tư Đức tại Việt Nam thì cơ bản cần phải nâng cao trình độ tay nghề, trình độ khoa học công nghệ của đội ngũ người lao động.
Thời gian tới Việt Nam là một quốc gia ngoài tăng trưởng về thu nhập thì nhu cầu sử dụng ô tô và thị trường ô tô cũng sẽ tăng trưởng rất nhanh. Do đó, phía Đức rất mong có thể tranh thủ và tận dụng Việt Nam là thị trường trọng điểm để chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực tay nghề cho các nhà máy sản xuất, các linh kiện, phụ kiện cung cấp cho các doanh nghiệp của Đức đã và đang ở Việt Nam.
Ngành lắp ráp của Việt Nam cũng thuộc về xu hướng phát triển toàn cầu hiện tại. Điều đó giúp khuyến khích các doanh nghiệp của Đức đa dạng hóa các thị trường cung cấp, đa dạng hóa các nhà cung cấp như là ở Việt Nam chẳng hạn cũng là một thị trường có nhiều tiềm năng. Mối quan hệ hợp tác dưới góc độ thương mại giữa Việt Nam và Đức đang hình thành rất là rõ ràng và trong tương lai, nhờ vào mối quan hệ giữa 2 bên sẽ có được những sản phẩm có thể cạnh tranh tốt hơn so với các sản phẩm từ nước láng giềng dưới góc độ về chi phí và chất lượng, ông Tiến nhấn mạnh.