Nhưng khi nền kinh tế bước vào thời kỳ hội nhập, hiện hữu nhất hiện nay là tác động trực tiếp của việc thực hiện theo lộ trình Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 đối với sản phẩm mía đường, đòi hỏi ngành mía đường Việt Nam phải tổ chức lại sản xuất để tồn tại, phát triển, trước hết là ngay tại sân nhà.
Các nhà máy mía đường ở Đắk Lắk cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Ảnh: Phạm Cường/TTXVN |
Ngành mía đường Việt Nam đã để lại dấu ấn lịch sử khi mà trong 5 năm (1995-2000) đã thực hiện thành công Chương trình một triệu tấn đường. Từ một nước phải chi hàng trăm triệu USD để nhập khẩu đường, nhưng ngành đường Việt Nam đã nhanh chóng đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước, đồng thời thiết lập được sự hiện diện của mình trên bản đồ đường thế giới.
Chương trình đã hoàn thành mục tiêu sản xuất 1 triệu tấn đường mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đặt ra. Có thể nói đây là chương trình đột phá, khởi đầu công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tạo chuyển dịch lớn về cơ cấu nông nghiệp, cơ cấu lao động ở nông thôn. Là chương trình mang tính kinh tế xã hội và nhân văn sâu sắc, cải thiện đáng kể đời sống nông dân nhiều vùng trồng mía, nhất là vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Năm 1994, cả nước có 150.000 ha mía, năng suất bình quân 42 tấn/ha, sản lượng mía 6,3 triệu tấn. Với 12 nhà máy đường hoạt động sản xuất được gần 100.000 tấn đường. Cùng với các cơ sở thủ công, tổng sản lượng đường cả nước đạt 300.000 tấn, thời điểm đó hàng năm phải nhập khẩu thêm trên 100.000 tấn.
Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, ngành mía đường đã xây dựng được một hệ thống các nhà máy chế biến đường công nghiệp trên cả nước với 44 nhà máy, tổng công suất là 78.200 tấn mía/ngày (bình quân 1.800 tấn mía/ngày/nhà máy), tăng gần 8 lần so với năm 1994. Các nhà máy đường mới đều được xây dựng tại các vùng nông thôn, vùng trung du, miền núi, vùng dân tộc ít người, vùng đất nghèo khó khăn, vùng sâu, vùng xa và được phân bổ khắp cả ba miền, mang lại cuộc sống ổn định cho người dân.
Đặc biệt, trong 5 năm này, từ một nước nhập khẩu đường, vốn đầu tư rất khó khăn, chương trình đã huy động được các nguồn vốn để xây dựng và hình thành ngành công nghiệp chế biến đường, đưa Việt Nam thành nước sản xuất đường có tên trên bản đồ ngành đường thế giới.
Thu hoạch mía tại xã Sơn Nguyên, huyện miền núi Sơn Hòa (Phú Yên). Ảnh: Thế Lập/TTXVN |
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đây là chương trình đầu tiên thực hiện thí điểm không sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản mà từ nguồn vốn vay đầu tư phát triển kết hợp với huy động các nguồn lực xã hội, bao gồm cả FDI.
Đến năm 2000, trong thời kỳ xây dựng cơ bản chương trình đã huy động được tổng vốn đầu tư trên 9.500 tỷ đồng, tương đương khoảng 700 triệu USD (không kể vốn đầu tư cho vùng nguyên liệu); trong đó, vốn nước ngoài là 470 triệu USD, chiếm 67% tổng số vốn đầu tư. Tại thời điểm đó đây là một chương trình đã huy động được vốn nước ngoài cao nhất.
Sau chương trình, các nhà máy đường gặp rất nhiều khó khăn do xây dựng vùng nguyên liệu chưa đồng bộ với xây dựng nhà máy, nhiều nhà máy bị thiếu nguyên liệu. Cùng lúc đó, ngành đường thế giới lại bị khủng hoảng thừa, giá bán đường giảm sút, nhiều nhà máy sản xuất thua lỗ.
Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 28/2004/QĐ-TTg về tổ chức lại sản xuất và thực hiện một số giải pháp xử lý khó khăn đối với các nhà máy và công ty đường. Đây được coi là bước chuẩn bị cho ngành mía đường bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới. Các nhà máy đường đã tích cực thực hiện cổ phần hóa, chuyển đổi sở hữu, xây dựng mới, thậm chí đóng cửa, phá sản một số nhà máy.
Từ đây, ngành đường đã bắt đầu điều chỉnh sắp xếp lại một số nhà máy cho phù hợp với khả năng phát triển vùng nguyên liệu. Đến nay, 100% các doanh nghiệp ngành đường đã được cổ phần hóa và hầu hết đã chuyển đổi không còn phần vốn của nhà nước. Có thể nói ngành đường là một trong những ngành thực hiện cổ phần hóa triệt để nhất.