Hạ tầng giao thông của quận Hà Đông (Hà Nội). Ảnh minh họa: Tuấn Anh/TTXVN
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng, cần cẩn trọng để đảm bảo chất lượng của hệ thống dữ liệu này, tránh tình trạng hình thức, thiếu cập nhật và thiếu chính xác.
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết quyết định sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, theo đó số lượng tỉnh, thành phố trên cả nước giảm từ 63 xuống còn 34. Việc thay đổi lớn về tổ chức hành chính sẽ kéo theo nhiều biến động trong hệ thống dữ liệu quốc gia, trong đó có dữ liệu về đất đai như ranh giới, địa giới hành chính, diện tích.
Theo Tiến sĩ Thái Quỳnh Như, chuyên gia Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam (VIRES), nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý đất đai, đây là bước thay đổi mang tính lịch sử, tác động sâu rộng tới hệ thống dữ liệu tự nhiên, văn hóa, xã hội và kinh tế. Vì vậy, việc Chính phủ yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai trong tháng 6 là chỉ đạo đúng đắn và phù hợp với tình hình thực tiễn.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai là tập hợp các cơ sở dữ liệu đất đai, được tổ chức để truy cập, khai thác, chia sẻ, quản lý và cập nhật thông tin qua phương tiện điện tử, theo Điều 3 Luật Đất đai năm 2024. Tại Khoản 4, Điều 166 Luật Đất đai cũng quy định rõ: cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương phải được kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai để cập nhật, chia sẻ, khai thác và sử dụng thông tin một cách hiệu quả, an toàn và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
Trong thời gian qua, việc tổ chức lại bộ máy Chính phủ và thực hiện Nghị quyết 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 về hợp nhất các đơn vị hành chính đã đặt ra yêu cầu cao đối với việc cập nhật và xây dựng dữ liệu đất đai. Việc hoàn thiện cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia được xác định là nền tảng quan trọng, nhằm cung cấp đầy đủ thông tin tài nguyên đất, tạo sự liên thông thủ tục hành chính giữa các cấp, phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Khoản 1, Điều 165 Luật Đất đai 2024 quy định, cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai bao gồm 8 nhóm chính: dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật về đất đai; địa chính; điều tra, đánh giá, bảo vệ, cải tạo, phục hồi đất; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; giá đất; thống kê, kiểm kê đất đai; thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo; và các dữ liệu liên quan khác.
Báo cáo của Cục Quản lý đất đai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho thấy, nhiều thành phần dữ liệu đã được xây dựng và hoàn thiện. Ở cấp Trung ương, các dữ liệu thống kê, kiểm kê đất đai; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; giá đất và điều tra, đánh giá đất đai đã được đưa vào khai thác. Dữ liệu quy hoạch và giá đất đang được tiếp tục cập nhật.
Nhiều địa phương đã thực hiện liên thông giữa cơ quan đăng ký đất đai và cơ quan thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và cung cấp thông tin liên ngành. Những kết quả này thể hiện sự nỗ lực lớn của ngành chức năng trong việc huy động nguồn lực, thiết bị, nhân sự để thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng điều quan trọng không chỉ là hoàn thành đúng hạn, mà cần đảm bảo chất lượng thực sự của dữ liệu: đầy đủ, minh bạch, chính xác và có khả năng cập nhật theo thời gian thực.
Tiến sĩ Đặng Hùng Võ, Chủ tịch Hội Trắc địa - Bản đồ - Viễn thám Việt Nam cho rằng, mục tiêu hoàn thành cơ sở dữ liệu đất đai trong tháng 6 là khó khăn và cần xem xét mức độ hoàn thành cụ thể. Bởi hiện vẫn còn thiếu hệ thống dữ liệu đất đai sạch và đầy đủ.
Tại Hà Nội, cơ sở dữ liệu còn chưa hoàn chỉnh, trong khi nhiều tỉnh miền núi còn gặp nhiều khó khăn hơn. Việc xây dựng dữ liệu vẫn thủ công, nhiều khu vực người dân đăng ký chưa được kiểm tra đầy đủ, một số trường hợp phải đo lại để có số liệu chính xác, gây tốn kém và làm chậm tiến độ... – ông Võ nhận xét.
Mặc dù đã có đầu tư nhưng phần mềm và hệ thống chưa được cập nhật thường xuyên, dẫn đến dữ liệu lỗi thời, thiếu khả năng phản ánh đúng thực tế. Các kỹ thuật cơ bản còn hạn chế, việc cập nhật thời gian thực chưa được đảm bảo. Dữ liệu giao dịch đất đai vẫn thiếu minh bạch nên chưa thể có được hệ thống chuẩn xác...
Theo ông Đặng Hùng Võ, cần làm sạch dữ liệu đất đai và xây dựng hệ thống cập nhật thường xuyên, kịp thời. Mọi cơ sở dữ liệu cần có khả năng cập nhật theo thời gian thực, phản ánh kịp thời các thay đổi thực tế.
Đồng quan điểm, ông Thái Quỳnh Như cũng cho rằng, việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, cả về khách quan lẫn chủ quan. Một số khó khăn khách quan đến từ việc thay đổi tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, cơ sở vật chất và nhân sự. Trong khi đó, khó khăn chủ quan gồm khối lượng hồ sơ lớn, trang thiết bị chưa được nâng cấp kịp thời, và trình độ công nghệ thông tin của một số cán bộ chuyên môn còn hạn chế.
Chuyển đổi số trong lĩnh vực đất đai có vai trò rất quan trọng. Chuyển đổi số là quá trình thay đổi toàn diện cách làm việc dựa trên nền tảng công nghệ. Đất đai là đầu vào của mọi lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, nên thông tin đất đai cần được sử dụng hiệu quả trong mọi hoạt động. Chuyển đổi số trong quản lý đất đai là việc triển khai các dịch vụ liên quan đến tổ chức và người dân sử dụng đất theo hướng đồng bộ, liên kết, thuận tiện, đảm bảo minh bạch và nhanh chóng.
Tuy nhiên, việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai không chỉ là số hóa hồ sơ, mà cần hướng tới hệ thống quản lý đồng bộ, có khả năng cập nhật, liên thông và minh bạch. Điều này đòi hỏi thay đổi tư duy quản lý, quy trình nghiệp vụ và nền tảng kỹ thuật để phục vụ hiệu quả cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý, ông Thái Quỳnh Như khuyến nghị.
Mới đây, Chính phủ vừa ban hành Nghị định 151/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp; phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực đất đai; có hiệu lực từ 1/7/2025. Trong đó nêu rõ trách nhiệm của UBND cấp tỉnh. Tại mục 3 về phân định trách nhiệm đã quy định rõ trách nhiệm cấp tỉnh, cấp xã trong lĩnh vực đất đai của chính quyền địa phương 2 cấp.
Cụ thể, tại Điều 12 về trách nhiệm của UBND cấp tỉnh quy định, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện quản lý Nhà nước về các nội dung quy định tại Luật Đất đai và các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai như: tổ chức lập và thực hiện dự án tái định cư; tổ chức thực hiện theo dõi và đánh giá đối với việc quản lý, sử dụng đất đai đối với cấp xã trực thuộc; đánh giá việc quản lý, sử dụng đất đai trên địa bàn cấp tỉnh; trình phê duyệt quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh; chỉ đạo UBND cấp xã thực hiện thu hồi đất liên quan đến đất quốc phòng, an ninh.
Cấp tỉnh thực hiện rà soát, xử lý và công bố công khai các dự án đầu tư không đưa đất vào sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc chậm tiến độ sử dụng đất 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư; các dự án được gia hạn; các dự án chậm tiến độ sử dụng đất vì lý do bất khả kháng.