Hát Aday là hò hát đối đáp do một đôi trai gái thách đố nhau bằng lời thơ, có nhạc đệm. Người trả lời phải dùng thơ đúng số chữ của người hỏi và vần phải đúng khi bắt vào chữ cuối cùng. Mỗi người hát bốn hoặc tám câu. Lối diễn xướng này giống như lối hò đối đáp của người Việt. Người Khmer bình dân rất thích lối hát Aday trong các buổi sinh hoạt vui chơi tại các phum, sóc hay tại sân chùa,…
Rô băm còn có tên gọi là hát rằm hay hát Ream kê, nhưng tên gọi quen thuộc nhất là Rô băm (múa hát Rô băm). Có thể liên tưởng Rô băm của người Khmer với nghệ thuật hát Tiều của người Hoa, hát Bội của người Việt. Nhiều người gọi sân khấu Rô băm là sân khấu kịch múa, bởi loại vũ kịch mặt nạ này sử dụng múa như một ngôn ngữ chính yếu, hát chỉ là phần phụ. Các điệu múa trong Rô băm vừa sinh động vừa mềm mại. Các điệu múa cơ bản của Rô băm là Rom yeak (múa chằn), Apsara (múa tiên), Txu txai (điệu kết hợp của 12 động tác múa), múa khỉ Hanuman,… Diễn viên múa trên nền tiếng hát ở hậu trường, múa trên nền nhạc không lời. Lúc đối thoại thì không có nhạc và cũng không có múa. Riêng vai hề thì không có múa và cũng không có hát, hề chỉ pha trò theo khẩu ngữ hoặc ứng diễn.
Nhân vật Chằn trong kịch hát Dù kê. |
Rô băm có hai tuyến nhân vật: Chính diện và phản diện. Phái chính diện thường là vua, hoàng hậu, công chúa và các nhân vật tài giỏi văn, võ, các loại vật như khỉ, voi,… Phái ác tập trung ở nhân vật Chằn. Chằn nữ không mang mặt nạ. Chằn nam mang mặt nạ miệng rộng, nhe nanh, mắt trợn. Chằn thường hò hét, các điệu múa của chằn như Patchơnlơnxách (chân khuỳnh), Mục caxách (đi ngang, ngông nghênh), chiêng-rụn (đi xéo), trơtômpong (múa gậy), chayvơaysét (phản ngựa),…
Do phát xuất từ cung đình với những quy trình chặt chẽ và ổn định, kịch bản của các vở diễn Rô băm đều lấy trong chuyện xưa tích cũ. Khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy các vở diễn của đoàn Rô băm ở ấp Bưng Chông, xã Tài Văn, huyện Trần Đề (Sóc Trăng) thường biểu diễn các kịch bản về trường ca Ream kê, Sângsalachi, Preleakchinavong, Tứp sangva... được biên soạn sẵn trong lá buông (satra slâc rith). Điều đó vô tình đã làm cho Rô băm không thể chuyển tải các đề tài đương đại và mất dần sức hấp dẫn. Dù kê ra đời nhiều vở diễn ca ngợi đạo lý những đậm chất trữ tình biểu hiện qua những cung bậc cảm xúc của tình yêu đôi lứa trong sáng, cao đẹp.
Các đoàn Dù kê thường thể hiện các kịch bản dân gian như Chao Sanh - Chao Thung (cùng motif với Thạch Sanh - Lý Thông của người Việt), Chao Sro Tôp Chêc (cùng motif với Trần Minh khố chuối), Neang Kòntuốc, Neang Chôngângkam (cùng motif với Tấm Cám), Neang Sê Đa, Ratanavông,...
Dù kê đã ra đời như một sự kết thừa và phân tích nghệ thuật Rô băm bằng cách thu thập các yếu tố nghệ thuật Việt, Hoa. Tên gọi dù trong tiếng Khmer có nghĩa là gom góp, vớt vát, sửa đổi; còn kê là kế thừa, là sợi dây nối dài. Tóm lại, Dù kê giống như loại hình nghệ thuật Cải lương của người Việt. |
Về lối biểu diễn, sân khấu Rô băm bắt buộc phải theo một nguyên tắc nhất định như hình thể uốn cong, vừa múa vừa hát và các nhân vật phụ như chằn (yeak), các con thú như chim đại bàng, ngựa, khỉ, rồng... phải đeo mặt nạ. Trước khi diễn vở tuồng, các đoàn Rô băm phải khai diễn thường là điệu hum rôn (gồm 4 nam, 4 nữ) và múa tính cách Chằn (yeak rom gồm một hoặc nhiều chằn tùy vào vở tuồng)... Đây được xem là màn múa bắt buộc để cổ vũ tinh thần cho diễn viên, đồng thời thu hút khán giả bằng những động tác múa uyển chuyển, dịu dàng của các diễn viên với trang phục sặc sỡ đẹp như nàng tiên giáng trần.
Và không quá khi nói rằng từ múa Rô băm, hành trình của những đường cong là một trong những nhan sắc uyển chuyển sinh động cho nghệ thuật biểu diễn Dù kê.
Với khoảng 1,3 triệu người, dân tộc Khmer đông thứ hai sau người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long. Người Khmer sống xen kẽ với các tộc người khác và cũng trồng lúa nước, nhưng với hình thức sống tập trung trong phum sóc, người Khmer vẫn bảo lưu được bản sắc văn hóa vốn có. Mỗi phum sóc của người Khmer không thể thiếu ngôi chùa, nơi thờ Phật, gửi cốt tổ tiên mà còn là nơi bảo tồn thư tích cổ, là trung tâm văn hóa giáo dục. Trong một môi trường văn hóa được bảo tồn chặt chẽ như vậy, người Khmer có điều kiện phát huy loại hình nghệ thuật đại chúng như Dù kê. Các quy chuẩn nghệ thuật sẵn có với những mô típ ổn định cho phép việc thiết kế sân khấu, đạo cụ bằng bàn tay nghiệp dư.
Nếu Rô băm đòi hỏi diễn viên múa chuyên nghiệp, tổ chức sân khấu quy phạm và phức tạp thì với bản chất không chuyên cho phép nghệ thuật Dù kê sống trong đời sống người Khmer Tây Nam Bộ. Biểu hiện sinh động nhất là nguồn diễn viên có thể được huy động từ một phum sóc nào đó. Và thế là trong vài đêm có cô thôn nữ chăm trồng hành, trồng cải đã sống đời hoàng hậu giữa cung đình. Còn người nông dân giỏi cày cấy đã thành hoàng tử nhiều quyền phép sẵn sàng vượt hiểm nguy để đón nhận sự trầm trồ thán phục từ khán giả.
Dù kê ra đời từ nhu cầu thiết thực của người bình dân. Họ muốn truyền tải tình cảm, tâm sự, ước mơ của mình vào các vở diễn. Nhiều yếu tố từ sân khấu, diễn xướng, nhạc cụ, đến diễn viên,… đều mang đậm sắc thái dân gian.
Hiện nay, việc bảo tồn gìn giữ và phát triển loại hình nghệ thuật thuật đặc sắc này hiện cũng gặp không ít trở ngại. Cần lắm những công trình lí luận nghiên cứu chuyên sâu hoàn chỉnh về Dù kê, song song với đó là những chính sách hợp lí để truyền dạy, gìn giữ giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc này của đồng bào dân tộc Khmer.