Những nhà báo chiến sĩ vì sự nghiệp Thông tấn

Trong hành trình xây dựng và phát triển 80 năm của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), nhất là giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhiều nhà báo chiến sĩ luôn ở tuyến đầu, giữa làn bom đạn. Họ vừa cầm bút, vừa cầm súng, lưu lại những khoảnh khắc chân thực nhất, trở thành những nhân chứng sống cho dòng tin chảy mãi.

Bám trụ nơi tuyến lửa, viết bằng cả tính mạng

Tháng 3/1973, ông Phạm Nhật Nam, phóng viên khóa GP10 của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), nguyên Phó Giám đốc Cơ quan TTXVN khu vực phía Nam (nay là Trung tâm Thông tin TTXVN khu vực phía Nam) khi ấy mới ngoài đôi mươi, cùng gần 150 cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên trẻ rời miền Bắc vào Nam chi viện chiến trường. Hành trang mang theo không chỉ là kiến thức báo chí, mà còn cả ý chí của những “nhà báo - chiến sĩ”.

Chú thích ảnh
Ông Phạm Nhật Nam chia sẻ kỷ niệm khi còn làm báo tại chiến trường miền Nam.

Sau khóa huấn luyện ngắn ngày, họ vượt Trường Sơn trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, thiếu thốn lương thực và luôn đối diện nguy cơ bị địch phục kích. “Có người đã ngã xuống ngay trên đường hành quân, nhưng ai cũng quyết tâm tới được mặt trận để kịp đưa tin về những trận đánh ác liệt, để cả thế giới biết dân tộc Việt Nam đang chiến đấu vì chính nghĩa”, ông Phạm Nhật Nam nhớ lại.

Theo ông Phạm Nhật Nam, khi đến chiến khu R tại Tây Ninh, mảnh đất tiền tuyến nóng bỏng, phóng viên Thông tấn xã Giải phóng (TTXGP) không chỉ viết tin, chụp ảnh, mà còn đào hầm tránh bom, trồng rau cải thiện bữa ăn, hay đi làm dân vận - vận động nhân dân ủng hộ cách mạng. Ông cùng các đồng đội như Vũ Đình Hào, Phạm Quang Nghị… nhiều lần chọn những gò đất giữa đồng nước làm nơi ẩn náu để vừa bám dân, vừa tránh sự phát hiện của địch.

Có những đêm, pháo địch nã vào căn cứ không theo quy luật, buộc họ phải ngâm mình dưới hầm nước lạnh suốt nhiều giờ. Ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ là gang tấc. Một lần ở xã Hòa Hiệp (Châu Thành, Tây Ninh cũ), bom địch đánh sập hầm trú ẩn, cướp đi sinh mạng hơn 50 người dân. Ông Phạm Nhật Nam thoát chết nhưng toàn bộ tư liệu, nhật ký, ghi chép đều bị thiêu rụi.

Vượt qua mất mát, ông Phạm Nhật Nam lập tức bắt tay viết bài tố cáo tội ác chiến tranh. May mắn mượn được chiếc máy ảnh và vài cuộn phim từ một hiệu ảnh trong vùng giải phóng, ông đã thực hiện bài tường thuật: “Giặc Mỹ lại gây tội ác với đồng bào vùng giải phóng”. Khi đó, bài viết được đánh giá sắc bén, đầy cảm xúc và được lãnh đạo đổi thành tiêu đề “Bom Mỹ lại rơi xuống võng em thơ, xuống trang sách học trò” gây chấn động dư luận trong và ngoài nước.

Những kỹ năng sinh tồn

Ở tuổi 75, bà Cao Tân Hòa, phóng viên lớp GP10 TTXVN vẫn không thể quên những ngày hành quân ròng rã dưới trời nắng như đổ lửa hay mưa tầm tã cuối mùa khô năm 1973 từ Đông Trường Sơn sang Tây Trường Sơn, đi kèm là mùa nước lũ bất chợt mang theo các loại bệnh truyền nhiễm như ghẻ lở, sốt rét và không ít ngày đói lả người vì lũ chia cắt..., nhưng cả đơn vị vẫn kiên cường vượt qua.

Chú thích ảnh
Nữ nhà báo Cao Tân Hoà thứ 2 từ trái sang là 1 trong 4 nữ nhà báo được phân công công tác tại khu V từ năm 1973 đến 30/4/1975.

Sau khi tốt nghiệp Khoa Hóa, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội tháng 7/1972, bà Cao Tân Hòa được tuyển về Việt Nam Thông tấn xã và học lớp đào tạo phóng viên cho TTXGP. “Khi đó, lớp GP10 (lớp phóng viên khóa 10) chúng tôi có hơn 150 học viên, đều là sinh viên mới tốt nghiệp từ các trường đại học ở Hà Nội. Hầu hết đồng nghiệp viết đơn tình nguyện xung phong vào chiến trường, còn quyết định chiến trường nào do tổ chức phân công. Đơn vị chúng tôi vào chiến trường Trung Trung Bộ có 4 nữ và 30 nam phóng viên”, bà Cao Tân Hòa cho biết.

Mang hành trang tuổi trẻ vào chiến trường, nữ phóng viên Cao Tân Hòa đã phải đối mặt và vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, phải hành quân đi tới các mặt trận, cùng các đơn vị quân giải phóng tác chiến và thường xuyên đối mặt với lằn ranh sinh tử. Trước khi vào chiến trường, các phóng viên GP10 chỉ được học kỹ năng viết báo, còn những kỹ năng khác phải tự quan sát và tích lũy khi tác nghiệp, từ việc hòa nhập với người dân bản địa, học ngôn ngữ dân tộc, địa phương, đến cách sinh tồn và chiến đấu… để có thể viết ra những bản tin ngắn gọn, dễ hiểu nhất gửi về tổng xã.

Chú thích ảnh
Nhà báo Cao Tân Hoà học làm đánh mã mooc truyền tín hiệu ra tổng xã.

“Hồi mới vào chiến trường, khi máy bay trinh sát thả khói vàng, khói tím, thấy lạ, tôi và đồng đội đứng ngây ra nhìn. Người dân thấy vậy hô hoán nấp ngay, bởi sắp bị tập kích đạn pháo. Vừa chạy xuống hầm gần đó, hàng loạt đạn pháo rung chuyển. Sau này tôi mới biết đó là khói chỉ điểm cho pháo tập kích… Bên cạnh đó, lương thực như gạo và muối lúc đó đều thiếu thốn, mọi người đều phải ăn độn thêm ngô, khoai, sắn, rau rừng. Nhiều loại lá rừng trông giống như rau ngót, nếu không biết, ăn vào sẽ bị ngộ độc, thậm chí tử vong…”, nhà báo Cao Tân Hòa nhớ lại.

Bà Cao Tân Hòa không thể quên lần đi viết bài về ông Bốn Lửa (ở Hoài Nhơn, Bình Định), một người dân địa phương luôn đi đầu đấu tranh với chính quyền ngụy và đưa ra các yêu sách có lợi cho dân. “Vì nhà nhân vật gần bốt địch, tôi được cải trang giống người dân địa phương, đi cùng 4 nữ du kích dẫn đường vào lúc trời bắt đầu tối, nên không biết mặt nhau. Trên đường đến nhà nhân vật, tôi và các du kích không nói chuyện, chỉ ra dấu và ký hiệu. Đến khi gặp nhân vật cũng chỉ trò chuyện, không có sổ bút ghi chép. Đó là lần duy nhất tác nghiệp, tôi phải dùng trí nhớ và lòng tin là vũ khí duy nhất để tự vệ…”, bà Cao Tân Hòa chia sẻ.

Dấu ấn mang tên nhà báo TTXVN

Nhà báo Nguyễn Văn Lý (nguyên Trưởng cơ quan thường trú TTXVN tại Quảng Trị cũ, nay là Trưởng cơ quan thường trú tại TP Huế) nhớ lại: “Khi có đề xuất đặt tên đường mang tên nhà báo Lương Nghĩa Dũng, người đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị, tôi được cơ quan giao chuẩn bị hồ sơ, tiếp cận thông tin về sự hy sinh của những thế hệ phóng viên đi trước, để có được hòa bình, hạnh phúc hôm nay”.

Chú thích ảnh
Nhà báo Lương Nghĩa Dũng.

Nhà báo, liệt sĩ Lương Nghĩa Dũng sinh năm 1934, tại thôn Phú Nhiêu, xã Quang Trung, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Ðông (nay là Hà Nội). Năm 1954, ông cùng bạn bè vào huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình xin nhập ngũ. Hòa bình lập lại, ông được cử đi học để trở thành giáo viên dạy Vật lý, thuộc quân số của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1965, ông được Tổng cục Chính trị cử đi học lớp đào tạo phóng viên ảnh của Việt Nam Thông tấn xã (VNTTX) cho chiến trường miền Nam. Từ năm 1967, ông trở thành một trong những tay máy chủ lực của Tổ Ảnh quân sự, đặt tại Phân xã Nhiếp ảnh, thuộc VNTTX. Nhà báo Lương Nghĩa Dũng hy sinh trên mặt trận Quảng Trị vào mùa Hè 1972.

Nhà báo Lương Nghĩa Dũng nổi tiếng với nhiều bức ảnh xuất sắc về chiến tranh tại Việt Nam. Trong 6 năm cầm máy, ông đã để lại một gia tài ảnh đồ sộ và quý báu, những bức ảnh rực lửa anh hùng, thấm mồ hôi, nước mắt và máu của người trong ảnh lẫn người cầm máy. Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật với tác phẩm "Đấu pháo ở Dốc Miếu". Tác phẩm ghi lại cảnh giữa những loạt pháo dồn dập trút xuống trận địa từ căn cứ Dốc Miếu (huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị), hai pháo thủ quân giải phóng đang hối hả nạp đạn và đạp cò bắn trả, khiến đất cát, cây lá tung lên trong một cơn lốc lửa. Cú bấm máy ấy còn cho thấy độ nhạy nghề của ông, khi ghi lại khoảnh khắc hai pháo thủ vội tới mức không kịp đội mũ sắt…

Chú thích ảnh
Tác phẩm nữ pháo binh Ngư Thủy của nhà báo Lương Nghĩa Dũng.

Năm 2017, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng cao quý nhất của Đảng, Nhà nước về Văn học nghệ thuật, lĩnh vực nhiếp ảnh với bộ ảnh gồm 5 bức ảnh, trong đó có bức 2 ảnh chụp ở chiến trường miền Bắc và 3 bức ảnh ở chiến trường Quảng Trị. Với những đóng góp to lớn của ông, tỉnh Quảng Trị đã thông qua Nghị quyết đặt tên đường mang tên nhà báo, liệt sĩ Lương Nghĩa Dũng tại phường Nam Đông Hà. Đây là sự tri ân tấm gương anh dũng hy sinh trên “đất lửa” Quảng Trị.

Những “nhịp gõ ma-níp” giữa rừng Chàng Riệc

Gia nhập TTXGP chỉ 10 ngày trước khi bản tin đầu tiên phát sóng (lúc 19 giờ ngày 12/10/1960), ông Đoàn Văn Thiều (còn gọi là Tư Thiều) gắn bó với công việc điện báo viên suốt nhiều năm, dù đối diện vô vàn gian khổ.

“Chúng tôi vừa học vừa làm, tự chế tạo và sửa máy móc, xoay xở mọi việc từ lương thực, thuốc men đến chiến đấu, hậu cần. Máy móc thiếu phải cải tiến, biến máy quay phát điện bằng tay thành đạp chân cho đỡ mỏi. Nhiều khi nghe tin địch nhắc tới TTXGP trên BBC là mừng lắm, vì biết thông tin của mình đã vượt ra thế giới”, ông Tư Thiều kể lại.

Chú thích ảnh
Ông Trần Tràng Dương, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh TTXVN, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin TTXVN Khu vực phía Nam tặng hoa điện báo viên Đoàn Văn Thiều trong chương trình về nguồn tại Địa chỉ đỏ của Biệt động Sài Gòn.

Công việc điện báo viên đòi hỏi sự tập trung và kiên nhẫn. Sóng yếu, nhiễu nhiều, phải có hai người kiểm tra chéo để đảm bảo chính xác. Tin mật được mã hóa bằng con số hoặc nội dung ngụy trang, chỉ người chỉ huy mới có thể giải mã. “Chúng tôi phát tin để đồng bào biết quân ta vẫn hiện diện, vẫn chiến đấu. Địch nghe được, cũng là cách để chúng hiểu quân ta không bao giờ biến mất”, ông Tư Thiều nói.

Những năm ấy, phân xã điện báo của ông chỉ có bảy người, hoạt động gần như tự lực hoàn toàn. Họ biết nhau qua tín hiệu hơn là qua giọng nói hay hình ảnh, bởi sự bí mật được đặt lên hàng đầu. Giữa rừng sâu, mỗi tiếng gõ ma-níp không chỉ là một ký tự, mà là nhịp đập của tinh thần chiến đấu, của quyết tâm giữ vững mạch thông tin cho hậu phương và thế giới.

Theo ông Tư Thiều, nghề báo hôm nay tuy thuận lợi hơn, ít nguy hiểm hơn, nhưng tinh thần tự lực, kiên trì, sáng tạo của phóng viên chiến trường vẫn nguyên giá trị. Tên gọi điện báo viên có thể không còn, nhưng kỹ thuật và tinh thần của họ vẫn hiện diện trong những người làm báo hiện đại.

Sự hy sinh và đóng góp của những nhà báo, chiến sĩ là một phần không thể tách rời trong lịch sử 80 năm xây dựng và phát triển của TTXVN. Họ đã để lại cho đất nước không chỉ là kho tàng tư liệu quý giá về chiến tranh và hòa bình, mà còn là tấm gương sáng về lòng dũng cảm, ý chí kiên cường và tình yêu nghề. Dòng tin hôm nay vẫn chảy, tiếp nối mạch nguồn mà các thế hệ nhà báo, chiến sĩ đi trước, để ký ức về một thời hào hùng mãi được khắc ghi.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, TTXVN có hơn 260 cán bộ, phóng viên đã anh dũng hy sinh; 30 đồng chí bị thương tật các hạng 1 đến hạng 4; nhiều đồng chí bị thương tật suốt đời, bị nhiễm chất độc da cam. Họ là những tấm gương cao cả về lòng yêu nước, ý chí kiên cường, anh dũng của đội quân xung kích trên mặt trận báo chí và tư tưởng.

Cường Tuyết Linh/Báo Tin tức và Dân tộc
80 năm TTXVN: Biểu tượng của hợp tác quốc tế
80 năm TTXVN: Biểu tượng của hợp tác quốc tế

Quan hệ giữa Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) và hãng thông tấn TASS của Nga được thiết lập từ những năm 1950. Hiệp định hợp tác đầu tiên được ký vào năm 1958 đã đánh dấu mối quan hệ bền chặt giữa hai quốc gia. Năm nay Việt Nam kỷ niệm 80 năm Quốc khánh (2/9/1945-2/9/2025) và TTXVN cũng kỷ niệm 80 năm ngày đồng hành cùng đất nước với tư cách là hãng Thông tấn quốc gia (15/9/1945-15/9/2025).

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN