Ngân hàng là ‘bà đỡ’, không chỉ vốn mà còn về môi trường kinh doanh

Để kinh tế tư nhân (KTTN) thực sự "cất cánh", Nghị quyết 68 có nêu, phải đa dạng hóa nguồn vốn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho kinh tế tư nhân (KTTN) tiếp cận các nguồn lực về vốn; rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho KTTN.

Báo Tin tức và Dân tộc đăng tải một số ý kiến chuyên gia nhân Tọa đàm "Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại (NHTM) trong thực hiện Nghị quyết 68", do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức mới đây.

Ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN):

Chú thích ảnh
Ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN). Ảnh: VGP

Cải thiện môi trường kinh doanh, tăng niềm tin vào ngân hàng

Ngay sau khi Nghị quyết 68 được ban hành, ngành Ngân hàng đã triển khai ngay việc ban hành 2 Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để cụ thể hóa Nghị quyết 68 cũng như Nghị quyết 198 của Quốc hội. Đồng thời, các Nghị quyết 138 và 139 của Chính phủ cũng được cụ thể hóa thông qua Quyết định số 2415 và 2416 của ngành Ngân hàng.

Một trong những mục tiêu xuyên suốt của Nghị quyết 68 là hoàn thiện hành lang pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Ngay lập tức, để khơi thông dòng vốn cũng như xử lý nợ xấu, ngành Ngân hàng đã tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cụ thể hóa Nghị quyết 42 vào trong Luật các tổ chức tín dụng (TCTD). Đây là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý, giúp các ngân hàng và TCTD tháo gỡ các nút thắt về tín dụng và xử lý nợ xấu – một thách thức lớn nhiều năm qua đối với toàn ngành.

Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân, điều quan trọng phải xây dựng được một môi trường kinh doanh an toàn, lành mạnh, giúp họ có niềm tin vào hệ thống ngân hàng. Đến thời điểm này, tăng trưởng tín dụng đã đạt mức 16,5 triệu tỷ đồng, tăng gần 19% so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này cho thấy khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đã được cải thiện. 

Không chỉ triển khai Nghị quyết 68, ngành Ngân hàng còn tích cực thực hiện nhiều chương trình tín dụng. Ví dụ như các chương trình tín dụng tại Vietinbank; Chương trình tín dụng ngắn hạn trị giá 300.000 tỷ đồng; Chương trình tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) với quy mô 80.000 tỷ đồng; và đặc biệt Chương trình 500.000 tỷ đồng cho vay đầu tư hạ tầng...

Hiện có 21 ngân hàng thương mại (NHTM) chuẩn bị nguồn lực để triển khai gói 500.000 tỷ đồng. Trong đó, 4 NHTM Nhà nước giữ vai trò chủ lực, mỗi ngân hàng đăng ký hơn 60.000 tỷ đồng. Còn 12 ngân hàng cổ phần tư nhân quy mô lớn đăng ký mỗi đơn vị hơn 20.000 tỷ, các ngân hàng quy mô nhỏ hơn đăng ký khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi đơn vị.

Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh:

Chú thích ảnh
Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh.

Kỳ vọng có thêm các Quỹ đầu tư để gánh vác bớt với các TCTD

Thực tế thời gian vừa qua có những tập đoàn, doanh nghiệp bất động sản có uy tín, năng lượng thật sự đã sử dụng nguồn vốn đó đúng mục đích, an toàn, chính việc đó giúp cho doanh nghiệp bất động sản hoàn thành các dự án và hoàn trả vốn vay, lãi vay cho ngân hàng. Nhưng bên cạnh đó cũng có doanh nghiệp yếu về năng lực, thậm chí đầu tư quá mức, đầu tư dàn trải nhiều dự án, không sử dụng vốn đúng mục đích… 

Các TCTD đóng vai trò cực kỳ quan trọng bởi ở Việt Nam hiện nay, các quỹ đầu tư tài chính còn chậm phát triển, quỹ đầu tư tài chính của ngân hàng giờ chỉ có 1 quỹ của Techcombank, chúng ta chưa có quỹ tài chính để đầu tư, thị trường vốn của chúng ta rất thiếu. Chúng tôi kỳ vọng có thêm các quỹ đầu tư để gánh vác bớt với các TCTD.

Đối với các doanh nghiệp bất động sản thì phải uy tín sẽ được các TCTD đưa vào danh sách khách hàng uy tín… Tự thân các doanh nghiệp bất động sản phải tái cấu trúc lại doanh nghiệp, tái cơ cấu lại đầu tư, không dàn trải, chuyển hướng đầu tư sang phân khúc thị trường đáp ứng nhu cầu thực.

Bà Nguyễn Bảo Thanh Vân, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank): 

Chú thích ảnh
Bà Nguyễn Bảo Thanh Vân, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) khẳng định vai trò của công nghệ trong nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính và hỗ trợ doanh nghiệp SME tiếp cận vốn hiệu quả. Ảnh: VGP

Mở rộng danh mục khách hàng

Đây là thời điểm quan trọng để nắm bắt cơ hội. Theo mục tiêu của Chính phủ, đến năm 2030, cả nước sẽ có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động. Tức là, mỗi năm cần có thêm khoảng 200.000 doanh nghiệp mới ra đời. Đây chính là làn sóng khởi nghiệp quốc gia mà VietinBank có thể tham gia hỗ trợ và đồng hành, từ đó mở rộng danh mục khách hàng, phát triển tín dụng lành mạnh và bền vững.

VietinBank xây dựng các gói tín dụng chuyên biệt cho doanh nghiệp tư nhân và các đối tượng khách hàng SME với lãi suất ưu đãi từ 5%/năm, thấp hơn cả mặt bằng lãi suất tiền gửi 12 tháng (hiện ở mức 5,2 – 5,3%). Các gói vay được thiết kế riêng cho từng ngành nghề, mục tiêu kinh doanh để bảo đảm phù hợp và hiệu quả cao nhất.

Theo tinh thần chủ trương về chuyển đổi số và số hóa của Chính phủ, VietinBank đã áp dụng các công nghệ chuyển đổi số vào phục vụ khách hàng, đặc biệt đối tượng khách hàng doanh nghiệp tư nhân và SME. VietinBank đang sử dụng AI để phân tích, thẩm định dựa trên cái dữ liệu dòng tiền và dựa trên chuỗi giá trị của khách hàng. VietinBank cũng tích hợp dữ liệu giữa ngân hàng, thuế và các cơ quan quản lý để thu thập những thông tin của khách hàng nhanh chóng và chính xác nhất để sớm đưa ra những quyết định thẩm định cho khách hàng.

Bên cạnh đó, VietinBank kỳ vọng hệ thống ngân hàng cùng hướng tới một tầm nhìn chung; đồng thời cam kết tập trung nguồn lực vào những lĩnh vực mà Chính phủ đã xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên như tín dụng xanh, sản xuất, nông nghiệp – những ngành đòi hỏi nguồn vốn lớn nhưng có khả năng tạo ra giá trị lan tỏa cao, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GDP và phát triển bền vững.

TS. Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng thư ký của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): 

Chú thích ảnh
TS. Đậu Anh Tuấn. Ảnh: VGP

Mở rộng tín dụng cho những doanh nghiệp có luồng tiền tốt

Nguồn vốn nên được khơi thông và thúc đẩy, khuyến khích chảy vào khu vực sản xuất, nơi tạo ra hàng hoá, dịch vụ cụ thể, nơi tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người lao động, nơi giúp giải quyết nhiều vấn đề về an sinh xã hội. 

Một trong những khó khăn của các NHTM là việc tiếp cận, kết nối được với các doanh nghiệp tốt. Nghị quyết 68 đã phần nào đưa ra hướng giải quyết cho vấn đề này, như yêu cầu tăng cường kết nối thông tin giữa các cơ quan Thuế, Kho bạc, cơ quan pháp luật với hệ thống ngân hàng. Qua đó, các ngân hàng có thể tiếp cận được dữ liệu về lịch sử tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Thay vì phải tự thu thập thông tin, tốn thời gian và chi phí, việc chia sẻ, kết nối dữ liệu sẽ giúp các ngân hàng có lợi thế hơn trong việc đánh giá, lựa chọn khách hàng tiềm năng.

Nghị quyết 68 đã khuyến khích việc cho vay không chỉ dựa trên tài sản thế chấp, mà phải chuyển sang cho vay dựa trên dòng tiền. Để thực hiện được điều này, cần phải gỡ bỏ các rào cản trong hệ thống pháp luật. Hiện, từ Nghị định đến Thông tư vẫn còn tồn tại những quy định gây trở ngại cho các NHTM khi áp dụng hình thức cho vay theo dòng tiền. Nếu chúng ta rà soát và loại bỏ những quy định bất cập này, sẽ tạo điều kiện để hoạt động tín dụng được vận hành một cách an toàn và hiệu quả hơn.

Cũng cần nhìn nhận rằng, cho vay theo dòng tiền luôn tiềm ẩn rủi ro và trong trường hợp xảy ra rủi ro, ngân hàng có thể bị quy trách nhiệm. Do đó, việc chấp nhận rủi ro trong hoạt động kinh doanh là cần thiết, miễn là rủi ro đó được quản lý tốt thông qua việc gỡ bỏ những rào cản pháp lý không cần thiết. Thay vì chỉ cho vay các khoản có tài sản bảo đảm, ngân hàng cần được tạo điều kiện để mở rộng tín dụng cho những doanh nghiệp có luồng tiền tốt, có lịch sử tuân thủ pháp luật rõ ràng, được đánh giá là có tiềm năng – kể cả khi chưa có tài sản thế chấp.

Một điểm rất khó hiện nay là việc tiếp cận vốn tín dụng đối với các doanh nghiệp SME, đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, khu vực chiếm tới 97 - 98% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam. Nhóm doanh nghiệp này hầu như rất khó tiếp cận được với hệ thống ngân hàng chính thức. Họ thường phải vay từ các nguồn phi chính thức như người thân, bạn bè, thậm chí từ "tín dụng đen", tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn cả về tài chính lẫn pháp lý.

Chúng ta hiện đã có các công cụ hỗ trợ như: Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp SME, Quỹ bảo lãnh tín dụng. Tuy nhiên, dù đã được thiết lập về mặt hình thức, các Quỹ này vẫn hoạt động kém hiệu quả.

Nghị quyết 68 đã đề ra nhiều giải pháp nhằm vận hành các quỹ hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng này theo hướng hiệu quả và tiệm cận cơ chế thị trường hơn. Thay vì hoạt động như một thiết chế hành chính như trước, các Quỹ cần được tổ chức theo hướng linh hoạt hơn, sẵn sàng chấp nhận rủi ro có kiểm soát để hỗ trợ đúng đối tượng, đúng mục tiêu.

Minh Phương/Báo Tin tức và Dân tộc
‘Kích hoạt’ kinh tế tư nhân: Để thể chế hóa, phải sửa luật, bãi bỏ luật
‘Kích hoạt’ kinh tế tư nhân: Để thể chế hóa, phải sửa luật, bãi bỏ luật

Cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng, việc sửa đổi Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫn cần phải được triển khai nhanh, có cơ chế rõ ràng để Nghị Quyết 68 của Đảng, Nghị quyết 198 của Quốc hội về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) đi vào cuộc sống. Nếu không thể chế hóa được, Nghị quyết vẫn chỉ là Nghị quyết.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN