Nhu cầu huy động vốn thông qua kênh TPCP rõ ràng rất lớn, nhưng tỷ lệ trúng thầu ngày càng giảm và chỉ đạt gần 60% giá trị gọi thầu trong năm 2018. Điều này chủ yếu do lợi tức TPCP các kỳ hạn đều đã giảm rất mạnh trong các năm trước đó. Đặc biệt, lợi tức TPCP kỳ hạn 5 năm đang ở mức 3,6%/năm, có thể thấp hơn mức lạm phát, dự báo 3,8% trong năm 2019.
Theo các chuyên gia kinh tế - tài chính của Công ty chứng khoán Rồng Việt, nguyên nhân một phần là sự lẩn quẩn của dòng tiền từ KBNN gửi tại hệ thống ngân hàng, ngoài ra sự tham gia sâu rộng hơn của Bảo hiểm xã hội cũng góp phần không nhỏ vào sự sụt giảm mạnh của lợi tức TPCP. Do đó, yêu cầu đòi hỏi mức lợi tức cao hơn nhằm thu hút dòng vốn đầu tư và đảm bảo kế hoạch tài chính của KBNN là điều khá rõ ràng.
Cùng với lạm phát, yếu tố thanh khoản ngân hàng thu hẹp cũng sẽ tạo áp lực lên trái phiếu. Trong kịch bản dự phòng, lợi tức TPCP có thể đi ngang trong quý 2/2019 và tăng trở lại vào cuối năm 2019. Tuy nhiên, sự điều chỉnh chính sách tiền tệ của NHNN thông qua việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc (RRR) có thể làm dịu bớt áp lực kể trên do chi phí vốn của ngân hàng thương mại nhà nước có thể thấp hơn.
Hiện nay, các Ngân hàng Trung ương trên thế giới cũng đang cân nhắc chuyển dần sang trạng thái nới lỏng. Giao dịch trên thị trường trái phiếu thứ cấp sẽ ghi nhận một số điểm chính gồm: Thanh khoản thị trường sẽ giảm so với giai đoạn 2017-2018; yếu tố phòng ngừa rủi ro gia tăng khi tỷ trọng giao dịch, hoạt động vay mượn cầm cố tiếp tục gia tăng; năm 2019 có thể là năm mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường trái phiếu trong trường hợp mức độ giảm giá của tiền đồng so với đồng bạc xanh không quá 3%.
Có thể thấy, thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng mạnh trong năm 2018, đạt 8,6% GDP 2018 và vượt qua mục tiêu 7% GDP đến năm 2020. Vì thế, nhiều chuyên gia kinh tế - tài chính kỳ vọng các công ty sẽ tiếp tục phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong năm nay, khi mà tín dụng bị thắt chặt, nhất là với lĩnh vực bất động sản.
Theo công bố từ NHNN, lãi suất huy động kỳ hạn trên 12 tháng trong khoảng 6,6%-7,3%/năm, còn lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 9%-11%/năm. Trên thị trường, ngoài khối ngân hàng có thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp với lợi tức quanh 7,5%/năm. Điều này cho thấy, ngày càng nhiều của các định chế tổ chức quốc tế lớn đóng vai trò bảo lãnh phát hành. Các trường hợp điển hình phải kể đến như MWG, CII, MSN... với lợi tức phát hành dưới 7%.
Công ty tài chính quốc tế (IFC) đã từng đề xuất chương trình hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu nội tệ ra thị trường quốc tế, với tên gọi trái phiếu Bông Sen. Điều này sẽ giúp đa dạng hóa nguồn vốn cho khối doanh nghiệp trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng được định hướng ổn định quanh 14%/năm.
Tuy nhiên, sự thiếu vắng tổ chức đánh giá tín nhiệm tiếp tục là điểm nghẽn của các doanh nghiệp Việt Nam khi tiếp cận thị trường vốn thế giới. Do đó, trong trường hợp triển khai, các chuyên gia kinh tế - tài chính cho rằng các doanh nghiệp lớn, niêm yết trên thị trường chứng khoán và công khai, minh bạch thông tin sẽ có cơ hội tiếp cận dòng vốn này dễ dàng hơn.