Nhằm giúp khách tham quan có thêm hiểu biết về nghệ thuật điêu khắc tượng gốm cổ Việt Nam, về những giá trị lịch sử - văn hóa ẩn chứa bên trong những hiện vật này, Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã tổ chức trưng bày chuyên đề “Tượng gốm cổ Việt Nam”. Trưng bày mở cửa đến hết tháng 8/2014, tại số 1 Tràng Tiền, Hà Nội.
Trên 70 hiện vật gốm cổ, có niên đại từ khoảng 4.000 năm trước đến đầu thế kỷ XX, với 3 chủ đề gồm: Tượng gốm hiện thực, tượng gốm tôn giáo, tín ngưỡng và tượng gốm trang trí kiến trúc.
Tượng Quan Âm Bồ Tát, gốm men trắng, thời Nguyễn, thế kỷ 19. |
Trong nghệ thuật tượng gốm cổ Việt Nam, tượng gốm hiện thực là những sản phẩm mỹ thuật thực dụng phục vụ nhu cầu trang trí, hưởng thụ cái đẹp trong đời sống, sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng cư dân. Loại tượng này chủ yếu là những vật dụng hàng ngày, được tạo hình theo hình thức tượng người, tượng động vật hoặc là tượng trang trí sản phẩm. Trong đó, đồ dùng sinh hoạt có các loại ấm, chén, lọ, bình, hộp, bình vôi, điếu hút thuốc... hình cóc, cua, cá, rùa, voi, ngựa, các loài chim... Đèn thắp sáng có đèn hình người, đĩa đèn có ống cắm bấc hình voi, rùa... Đồ trang trí có các loại chậu cảnh hình voi, các loại lọ hoa ốp tường hình tôm, cá, mai điểu... Theo Bảo tàng Lịch sử quốc gia, đây cũng là sưu tập hiện diện đầy đủ nhất các chất liệu gốm như đất nung, sành, gốm xốp và gốm men, không những phong phú về loại hình sử dụng mà còn đa dạng về đề tài thể hiện như con người, các loài chim, thú, vật nuôi... gần gũi với đời sống con người.
Lọ hoa ốp tường hình mai điểu, gốm nhiều màu, thời Nguyễn, cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. |
Các hiện vật tượng gốm chủ đề tượng gốm tôn giáo, tín ngưỡng cho thấy, tượng gốm cổ Việt Nam phục vụ tôn giáo tín ngưỡng chủ yếu gồm tượng Phật giáo và tượng các vị thần linh trong các tín ngưỡng dân gian. Thời Lý - Trần, tượng Phật giáo chủ yếu là tượng Đức Phật và các vị tăng già, tổ Phật, kích thước đa phần đều rất nhỏ, được làm bằng đất nung hoặc gốm men để thờ trong các bảo tháp, điện thờ. Những giai đoạn muộn về sau, tượng Phật giáo chủ yếu bằng chất liệu gốm men.
Các nhân vật Phật giáo cũng đa dạng hơn trước, nhưng xuất hiện nhiều hơn cả là tượng Quan Âm trong nhiều hình thức hóa thân khác nhau như Quan Âm cam lồ, Quan Âm tự tại, Quan Âm thủ quyển, Quan Âm Nam Hải, Quan Âm tống tử... đáp ứng nhu cầu tu hành tại gia và việc thờ phụng mang tính chất cá nhân trong các am thờ hoặc những khi du hành trên đường.
Bình hình rồng, gốm nhiều màu, thời Lê Sơ, thế kỷ 15. |
Tượng thần linh có các loại tượng Tam Đa (Phúc - Lộc - Thọ), Táo Công, Thổ Địa, Thần Tài... Mỗi tượng thường mang một ý nghĩa biểu trưng riêng, gắn với các niềm tin tâm linh mang đến sức khỏe, bình an, phúc đức, tài lộc... cho chủ nhân sở hữu. Bên cạnh đó, còn có các vật dụng nghi lễ vừa mang ý nghĩa tâm linh, vừa mang ý nghĩa sử dụng và có tính thẩm mỹ cao như đèn, đài thờ, đỉnh trầm, bình nước, bình hoa... được tạo tác theo hình các linh vật như rồng, phượng, lân, nghê, voi, sư tử. Những vật dụng này không chỉ mang ý nghĩa tâm linh, ý nghĩa thực dụng mà còn mang tính thẩm mỹ cao.
Bình hình gà, gốm hoa lam, thời Lê Sơ, thế kỷ 15. |
Tượng gốm trang trí kiến trúc chủ yếu là tượng các linh vật như rồng, lân, nghê, xi vẫn... được gắn trên bờ nóc, bờ quyết, tàu đao quật thuộc bộ mái hoặc tam quan, trụ cổng các công trình kiến trúc cung đình, tôn giáo tín ngưỡng và dân sinh cổ như cung điện, chùa, đình, đền, miếu, lăng mộ, nhà thờ họ, cầu ngói, cổng làng...
Tượng nghê, gốm men lục, thời Lê Sơ, thế kỷ 15. |
Mỗi linh vật mang một ý nghĩa biểu tượng khác nhau, đồng thời là những hình tượng thể hiện tinh thần của các công trình kiến trúc cổ: Rồng mang ý nghĩa là biểu tượng trung tâm, thường được gắn ở giữa nóc mái; lân, nghê là những linh vật canh giữ về mặt tinh thần, mang đến điềm lành và xua đuổi tà ma, ác quỷ nên thường được gắn trên bờ quyết theo hướng trông xuống góc mái, hoặc đặt trên đầu hai trụ cổng theo hướng châu đầu vào nhau; xi vẫn là biểu tượng của nước, thường được đặt ở hai đầu nóc mái hoặc các góc tàu đao quật, với niềm tin sẽ mang đến những cơn mưa lành ngăn chặn hỏa tai cho ngôi nhà... Do đặc thù trang trí ngoài trời, chất liệu gốm ít được sử dụng, nên các hiện vật này chủ yếu là đất nung, đất nung tráng men hoặc sành.
Cặp tượng lân, gốm men lam, thời Nguyễn, cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. |
Theo TS. Nguyễn Văn Đoàn, Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia, tượng gốm là một trong các loại hình điêu khắc xuất hiện sớm nhất của văn minh nhân loại, mang đặc trưng nghệ thuật tạo hình trực quan theo không gian ba chiều, nhằm phản ánh hiện thực hoặc mang tính biểu tượng. Do đặc thù vật liệu, gốm chỉ phù hợp để làm các bức tượng nhỏ. Tuy vậy, các tác phẩm tượng gốm không những thể hiện khát vọng hướng tới chân - thiện - mỹ của loài người, mà còn phản ánh niềm tin tôn giáo ở hầu hết các nền văn hóa trên thế giới.
Tượng uyên ương gắn trên ngói úp nóc, đất nung, thời Lý - Trần, thế kỷ 11 - 14. Thăng Long, Hà Nội. |
Ở Việt Nam, tượng gốm sớm nhất đã được tìm thấy trong văn hóa Phùng Nguyên, thuộc sơ kỳ thời đại kim khí, có niên đại cách ngày nay khoảng 4.000 - 3.500 năm. Đến thời kỳ phong kiến tự chủ (thế kỷ X - đầu thế kỷ XX), cùng với sự phát triển của nghề gốm, tượng gốm ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Không chỉ đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của người Việt, tượng gốm còn được sản xuất để phục vụ việc thực hành các nghi lễ thờ cúng, tôn giáo, tín ngưỡng. Không những thế, lấy cảm hứng từ thiên nhiên, cuộc sống hàng ngày, bằng bàn tay tài hoa, sức sáng tạo và óc thẩm mỹ, các nghệ nhân gốm Việt xưa đã thổi hồn vào đất để tạo ra những thành quả văn hóa, nghệ thuật phản ánh sinh động các mặt đời sống xã hội, thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử.
Phương Lan