Tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) diễn ra tại Anh, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã phát biểu khẳng định, Việt Nam cam kết mạnh mẽ đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Đây là nội dung quan trọng thể hiện quyết tâm và cam kết chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc đẩy mạnh chuyển đổi kinh tế nhằm góp phần giải quyết khủng hoảng khí hậu.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu đồng thời có tổng lượng phát thải khí nhà kính hàng năm lớn (hiện đứng thứ 21 trên thế giới và đứng thứ 2 trong ASEAN). Tại Hội nghị COP26, Đoàn cấp cao của Việt Nam đã tham gia và phát biểu tại các phiên họp, sự kiện quan trọng có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của Việt Nam như: Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris để đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; tham gia sự kiện công bố cam kết giảm phát thải mê-tan toàn cầu; công bố Tuyên bố Glasgow của các lãnh đạo về rừng và sử dụng đất…
Việt Nam cũng đã tham gia nhiều sáng kiến rất quan trọng như cam kết không xây dựng mới điện than; cam kết về bảo vệ rừng và sử dụng đất hợp lý; tham gia liên minh thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu; cùng các quốc gia thảo luận dẫn đến đồng thuận thông qua Gói Thỏa thuận Khí hậu Glasgow. Đây là những cam kết rất mạnh mẽ của Việt Nam, hòa cùng với xu thế chung của nhân loại, xu thế hành động mạnh mẽ về phát triển ít phát thải.
Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm, đạo đức, nhận thức của các tổ chức, tập thể, cá nhân về biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ: "Ứng phó với biến đổi khí hậu, phục hồi tự nhiên phải trở thành ưu tiên cao nhất trong mọi quyết sách phát triển, là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của mọi cấp, mọi ngành, mọi doanh nghiệp và mọi người dân… đoàn kết toàn cầu là cách thức duy nhất, chúng ta cùng bàn, cùng làm và cùng chiến thắng".
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định cam kết Việt Nam sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ để đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050". Điều đó thể hiện tầm nhìn của người đứng đầu Chính phủ về phát triển kinh tế- xã hội đất nước trong giai đoạn tới đây, định hướng các hoạt động đầu tư phát triển trong giai đoạn tới nhằm hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra. Con đường đến mục tiêu đó phải là con đường "xanh", phù hợp xu thế phát triển chung toàn cầu.
Đánh giá cao về những cam kết của Việt Nam, ông Paul Smith, Phó Chủ tịch Mạng lưới Việt Nam - Anh cho rằng, mặc dù là nước đang phát triển có thu nhập trung bình và là nước phát thải thấp, mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 cho thấy cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc tham gia vào nỗ lực toàn cầu chống biến đổi khí hậu. Đồng thời chứng tỏ vai trò dẫn dắt của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á và trên thế giới. Cam kết này hài hòa và phù hợp với bối cảnh của Việt Nam là một trong những nước chịu tác động nặng nề nhất của tình trạng nước biển dâng.
Ghi nhận những nỗ lực của Việt Nam, ông Terence D. Jones, Quyền Trưởng đại diện thường trú Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam cho biết: ''Ngài Thủ tướng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công bằng và công lý trong việc giải quyết khủng hoảng khí hậu. Chúng ta phải đảm bảo rằng, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi cuộc khủng hoảng khí hậu được hỗ trợ nhiều nhất. Trên tất cả là thông điệp mạnh mẽ về cách chúng ta có thể làm việc cùng nhau để giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu''.
Trong khuôn khổ Hội nghị, tại các cuộc tiếp xúc song phương, lãnh đạo các nước đánh giá cao và coi Việt Nam là hình mẫu về một nước đang phát triển còn nhiều khó khăn nhưng đã có những đóng góp đi đầu về ứng phó biến đổi khí hậu; mở ra cơ hội để Việt Nam tăng cường hợp tác với các nước, các đối tác về tài chính, chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực để hỗ trợ các nỗ lực của Việt Nam nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, để đưa ra cam kết trên, ngay trước thời điểm chính thức tham dự Hội nghị COP26, Việt Nam đã có sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng; trong đó có việc đưa vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, các cam kết của Việt Nam thực hiện Thỏa thuận Paris vào Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, Nghị định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn; xây dựng các quy định thực hiện giảm nhẹ, thích ứng với biến đổi khí hậu đáp ứng yêu cầu minh bạch…
Thực tế, các vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu đưa vào Luật, vào Nghị định đã được chuẩn bị trên cơ sở Gói Thỏa thuận khí hậu Katowice đã được thông qua năm 2018 tại Hội nghị COP24. Do đó, các điểm mới trong Gói Thỏa thuận khí hậu Glasgow lần này như cơ chế thị trường các-bon sẽ được tiếp tục nội luật hóa để xây dựng thị trường các-bon nội địa của Việt Nam hoàn thành vào năm 2025, thực hiện thí điểm và đi vào hoạt động chính thức từ 2028. Các quy định trên cũng là cơ sở pháp lý để huy động toàn dân thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu, đúng như phát biểu của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị COP26, vấn đề toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu; vấn đề tác động đến toàn dân thì toàn dân phải tham gia ứng phó.
Trên tinh thần đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo sớm ban hành Nghị định quy định giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn; danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính; hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu cấp quốc gia để triển khai thực hiện.
Song song với đó, các bộ, ngành, địa phương cần rà soát, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan phù hợp với mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; tích cực, chủ động tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn lực tài chính, công nghệ, tăng cường năng lực triển khai Thỏa thuận Paris và các cam kết được Thủ tướng Chính phủ tuyên bố tại Hội nghị COP26.
“Về phía Bộ Tài nguyên và Môi trường, chúng tôi đã đề xuất Thủ tướng thành lập Ban Chỉ đạo để đề xuất cơ chế, chính sách, pháp luật, quy hoạch, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi và tận dụng các cơ hội huy động nguồn lực trong, ngoài nước cho phát triển hạ tầng biến đổi khí hậu và phát triển năng lượng tái tạo... đồng thời sẽ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và các đối tác phát triển xây dựng đề án về nhiệm vụ, giải pháp đột phá triển khai kết quả Hội nghị COP26 về biến đổi khí hậu”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết.
Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp với Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành, địa phương liên quan triển khai điều tra khảo sát biển phục vụ quy hoạch phát triển điện gió ngoài khơi gắn với Quy hoạch không gian biển quốc gia; triển khai áp dụng các công cụ định giá các-bon, bao gồm thuế các-bon và phát triển thị trường các-bon trong nước; tuyên truyền, nâng cao nhận thức, năng lực cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân để tham gia các cơ chế thị trường, phi thị trường; xây dựng kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030, kế hoạch triển khai Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất…
Đánh giá về những thách thức cũng như cơ hội của Việt Nam khi thực hiện các cam kết đã tham gia, Bộ trưởng Trần Hồng Hà chia sẻ: “Có thể nói, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã có tầm nhìn mang tầm chiến lược, kịp thời nắm bắt xu thế thời đại về phát triển các-bon thấp, giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu, qua đó gửi đi tín hiệu mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế về con đường phát triển của Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. Điều đó đã giúp chúng ta có thể tiếp cận được với sự dịch chuyển các dòng vốn tín dụng, đầu tư toàn cầu, cũng như đáp ứng được sự thay đổi về “luật chơi” mới về thương mại, kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, để thực hiện được những cam kết trên còn có rất nhiều việc phải làm”.
Trước hết là phải rà soát lại các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã và đang được xây dựng của các bộ, ngành, địa phương để điều chỉnh phù hợp với lộ trình đưa phát thải ròng của Việt Nam về 0 vào năm 2050.
Đồng thời, để nắm bắt được các cơ hội từ sự dịch chuyển các dòng vốn tín dụng, đầu tư phát triển của thế giới, nhất là từ các định chế tài chính, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp đa quốc gia, chúng ta cần phải rà soát, có những giải pháp đột phá trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư rất thuận lợi để hợp tác phát triển và thực hiện các dự án về chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính cùng với các nước phát triển có tiềm năng về kinh tế, công nghệ như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh, các nước G7, các nước Bắc Âu… trong đó có nhiều nước có quan hệ rất tốt đẹp và là những nhà đầu tư lớn tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải tăng cường phổ biến, tuyên truyền để người dân và doanh nghiệp hiểu được những cơ hội, lợi ích lâu dài từ việc tham gia các sáng kiến toàn cầu về giảm phát thải khí nhà kính cũng như những thách thức trong ngắn hạn về chuyển đổi năng lượng, chuyển từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo. Đây là việc cần phải thực hiện có lộ trình phù hợp để thay đổi tâm lý vì lợi ích trước mắt, bỏ qua lợi ích lâu dài còn sâu vào nếp nghĩ, cách làm của toàn xã hội…
Ngoài ra, chúng ta thấy rằng, nguồn lực tài chính cho thích ứng với biến đổi khí hậu cũng còn rất khó khăn. Do đó, chúng ta cũng phải chủ động có các cơ chế chính sách phù hợp để thu hút sự tham gia đầu tư của khối doanh nghiệp vào các dự án thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt trong bối cảnh nguồn lực trong nước rất thiếu. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải chuẩn bị nguồn nhân lực trong nước thật tốt để đáp ứng và áp dụng các công nghệ, quy trình sản xuất tiên tiến.
Nhiều chuyên gia cho rằng, để hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050, trước mắt cần sớm loại bỏ các dự án gây ô nhiễm môi trường, cùng với đó, có các giải pháp tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo vào hệ thống lưới điện Việt Nam.
Theo thông tin từ nhóm tư vấn Năng lượng điện và Khí đốt thiên nhiên - McKinsey & Company, Chính phủ Việt Nam đã tích cực nâng công suất phát điện với cam kết khai thác triệt để các nguồn năng lượng tái tạo. Bộ Công Thương cũng đã công bố dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII). Quy hoạch đặt ra các mục tiêu cao hơn về công suất năng lượng tái tạo, đồng thời chỉ đề cập đến các nhà máy điện than đã và đang xây dựng; không có quy hoạch phát triển nhà máy điện than mới. Đây là một nỗ lực không hề nhỏ với một quốc gia sử dụng than đá làm nguồn năng lượng phát điện chủ yếu và cơ bản đã khai thác hết nguồn thủy điện, trong khi nhu cầu năng lượng vẫn đang tăng với tốc độ gần 10%/năm, nhận định của McKinsey & Company cho hay.
Theo Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC), để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 - Net Zero, Việt Nam cần dừng triển khai các dự án than mới, cũng như đưa ra lộ trình tiến tới loại bỏ các dự án điện than hiện tại. Bởi hiện nay, với xu hướng toàn cầu chuyển dịch năng lượng khỏi nhiên liệu hóa thạch, phát triển điện than đang khép lại và các dự án điện than mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động tài chính.
Để tiến tới mục tiêu Net Zero, theo GWEC, nhu cầu về điện có thể được đáp ứng bởi các nguồn năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời, cũng như thủy điện, pin tích trữ và các công nghệ khác. Đây cũng là hướng đi Việt Nam có thể hướng tới. Ngoài ra, điện gió ngoài khơi hoàn toàn có thể được sử dụng cho việc phát triển nguồn tài nguyên điện tiết kiệm và đáng tin cậy trong những năm tới. Hiện nguồn điện này chưa được triển khai tại Việt Nam.
Ông Mark Hutchinson, Chủ tịch, Nhóm công tác khu vực Đông Nam Á, Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu cho biết, chi phí điện gió đã giảm mạnh trong những năm gần đây và sẽ tiếp tục trở nên cạnh tranh hơn khi cơ chế đấu thầu được triển khai. Sau giai đoạn khởi tạo ngành (4-5 GW đầu tiên), điện gió ngoài khơi hoàn toàn có thể cạnh tranh về chi phí với điện than và khí. Hơn nữa, việc phát triển năng lượng tái tạo đang nhận được sự hậu thuẫn rất mạnh mẽ từ ngành tài chính toàn cầu, thông qua trái phiếu xanh, tài chính xanh, cũng như các cơ chế khác. Các tổ chức tài chính toàn cầu sẵn sàng đầu tư nhiều tỷ USD vào phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam.
Nhiều chuyên gia cho rằng, trong Quy hoạch Điện VIII sắp tới, Việt Nam nên xem xét đưa mức năng lượng gió tham vọng cao hơn, để từ đó, biến điện gió ngoài khơi trở thành trụ cột trong hệ thống điện tương lai. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, để đạt mục tiêu phát thải bằng 0 vào năm 2050, sẽ có nhiều mục tiêu liên quan cần điều chỉnh tổng thể.
Giám đốc phát triển thị trường và chiến lược cho khu vực châu Á và Trung Đông của Tập đoàn Warsila - Malin Ostman cho rằng: “Các nước với các dự án điện than đã được quy hoạch nên nghiên cứu những phương án khác để đảm bảo an ninh năng lượng. Để hướng tới lộ trình phát thải bằng 0 thì năng lượng tái tạo gồm điện mặt trời, điện gió và nguồn điện khí có thể trở thành một nguồn điện với chi phí hợp lý và độ tin cậy cao khi có đủ sự linh hoạt trong hệ thống điện”.
Đồng tình với quan điểm trên, bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) cho biết, tuyên bố toàn cầu về việc chuyển đổi từ điện than sang năng lượng sạch có 4 điểm chính. Đó là, nhanh chóng mở rộng quy mô của điện sạch; loại bỏ điện than vào thập niên 2030 đối với các nền kinh tế lớn và vào thập niên 2040 trên toàn cầu; ngừng cấp giấy phép mới, xây dựng mới và hỗ trợ mới hay trực tiếp từ Chính phủ cho các dự án điện than; tăng cường nỗ lực trong nước và quốc tế để đảm bảo khuôn khổ mạnh mẽ để thực hiện quá trình chuyển dịch công bằng.
“Do đó, trước tiên phải điều chỉnh Dự thảo Quy hoạch điện VIII đi theo hướng cam kết này. Đồng thời, chú trọng tới cơ chế tạo điều kiện thu hút nguồn vốn từ Quỹ khí hậu Xanh để hỗ trợ nguồn vốn cho thực hiện Net Zero ở Việt Nam. Bên cạnh đó, chiến lược hành động quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu do Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng cũng sẽ nâng cấp mục tiêu theo Net Zero, đẩy sớm hơn thị trường carbon và các cơ chế chính sách về tài chính xanh, kinh tế tuần hoàn…”, bà Khanh nói.
Các chuyên gia cho rằng, Chính phủ Việt Nam đã tái khẳng định và mở rộng phạm vi cam kết tăng công suất năng lượng tái tạo để không chỉ dừng lại ở việc lắp đặt các tấm năng lượng mặt trời, hiện vẫn giữ vai trò chủ đạo. Giai đoạn mở rộng năng lượng tiếp theo của Việt Nam sẽ đòi hỏi các dự án quy mô lớn, sử dụng nhiều vốn và kỹ thuật phức tạp hơn, đối với cả năng lượng mặt trời và điện gió trên bờ - nhưng đặc biệt là điện gió ngoài khơi… Việt Nam có thể hướng tới Net Zero nhờ cam kết mạnh mẽ, cùng những giải pháp đồng bộ, lộ trình rõ ràng để thực hiện.
Mới đây, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đã chủ trì Hội nghị lấy ý kiến hoàn thiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch Điện VIII). Tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An cho biết, trên cơ sở chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành tại cuộc họp về Quy hoạch Điện VIII ngày 5/11/2021, Bộ Công Thương thực hiện tính toán bổ sung thêm phương án phát triển nguồn điện (Phương án điều hành tháng 11/2021) có xem xét tới yếu tố dự phòng khi tỷ lệ thực hiện nguồn điện không đạt 100% so với quy hoạch, đồng thời xem xét giảm nguồn điện than theo tinh thần của Hội nghị COP 26, để xin ý kiến các cơ quan, tổ chức, địa phương và các chuyên gia, nhà khoa học.
So với dự thảo Quy hoạch tháng 3/2021, phương án điều hành trong Dự thảo tháng 11/2021 đã thể hiện xu hướng phát triển các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, phù hợp cam kết cắt giảm khí CO2 tại Hội nghị COP 26. Cụ thể, phương án điều hành trong Dự thảo tháng 11/2021 đề xuất công suất nguồn đến năm 2030 giảm khoảng 24.000 MW (từ khoảng 180.000 MW xuống 156.000 MW), đến 2045 giảm khoảng 36.000 MW (từ 369.500 MW xuống 333.500 MW).
Một số quan điểm lớn trong Quy hoạch Điện VIII là giảm điện than; phát triển năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, chú ý bảo đảm hiệu quả, hài hòa, cân đối của hệ thống. Điện gió ngoài khơi đóng vai trò quan trọng, sẽ được tập trung ưu tiên trong giai đoạn tới. Sẽ xem xét lại việc phát triển điện mặt trời, hiện có nhược điểm là có số giờ vận hành hạn chế (tương đương 4h/ngày), chưa có hệ thống lưu trữ năng lượng.
Quan điểm nữa trong Quy hoạch Điện VIII là tính toán cân đối nguồn - tải theo vùng miền, hạn chế truyền tải điện đi xa, hạn chế thấp nhất truyền tải điện liên vùng (qua tính toán, so với dự thảo quy hoạch trước, lần này, cắt giảm hàng nghìn km đường dây 500 KV phải xây mới). Bên cạnh đó, bảo đảm dự phòng từng miền ở mức độ hợp lý, đặc biệt là ở miền Bắc, trong bối cảnh hiện nay tốc độ tăng trưởng điện năng tiêu thụ của miền Bắc cao nhất trong 3 miền.
Đại diện Liên minh Năng lượng bền vững tại Việt Nam (VSEA), ông Hoàng Xuân Lương (nguyên Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc) cho rằng: Chúng ta đứng trước một thời cơ quan trọng để đón bắt bước phát triển quốc tế, để tiến nhanh hơn vào phát triển xanh. Ông Hoàng Xuân Lương lấy ví dụ về Nam Phi, từ 85% phụ thuộc điện than, sau đó đã tận dụng các hỗ trợ quốc tế và chuyển hướng sang năng lượng tái tạo. Trong khi đó, tiềm năng về năng lượng tái tạo của Việt Nam lại thuộc nhóm hàng đầu châu Á. Để phát huy tiềm năng đó, ông Hoàng Xuân Lương kiến nghị: Quy hoạch chỉ nên xây dựng mục tiêu tổng công suất, còn cơ cấu nguồn điện chi tiết thì để các địa phương sắp xếp, triển khai phù hợp.
Đại diện Liên minh Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF), bà Virginia B.Foote đánh giá cao cam kết của Việt Nam tại COP 26, việc xây dựng Quy hoạch điện VIII cũng như mối quan hệ hợp tác, lấy ý kiến các doanh nghiệp. “Chúng tôi tán thành việc mở rộng các dự án năng lượng tái tạo trong những thập niên tiếp theo. Chúng tôi cũng thống nhất phương hướng hạn chế dần các dự án nhiệt điện than mới trong Quy hoạch điện VIII”. Bà Foote đề nghị có giải pháp tiến cận nguồn vốn linh hoạt để đẩy nhanh tiến độ các dự án năng lượng tái tạo bởi các tiến bộ công nghệ diễn ra hàng ngày; có kế hoạch thu xếp vốn tài chính nhanh chóng vào các dự án.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng đề xuất giải pháp nhằm xác định tổng công suất nguồn và tỷ lệ dự phòng phù hợp; bố trí nguồn điện hợp lý, cân đối giữa các vùng, miền để tiết kiệm tối đa đầu tư hệ thống truyền tải; giải pháp và lộ trình chuyển đổi từ các nguồn năng lượng hóa thạch sang các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; tỷ lệ từng loại nguồn điện trong hệ thống điện quốc gia…
Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành nhấn mạnh, Quy hoạch Điện VIII là quy hoạch ngành quốc gia có vai trò đặc biệt quan trọng, tạo lập và bảo đảm định hướng phát triển bền vững, hiệu quả ngành Điện lực Việt Nam, đảm bảo an ninh năng lượng, là tiền đề cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước trong thời kỳ tới.
Do đó, Quy hoạch Điện VIII phải được tính toán một cách khoa học, kỹ lưỡng, cân nhắc tất cả các yếu tố để đảm bảo mục tiêu cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; phù hợp với những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật trong lĩnh vực năng lượng điện và xu thế thời đại; thực hiện những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam về bảo vệ môi trường, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội cân đối giữa các vùng, miền, địa phương.
Phó Thủ tướng khẳng định, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn rất cầu thị, sẵn sàng lắng nghe, tiếp thu những ý kiến xây dựng, trách nhiệm của các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức quốc tế. Từ tháng 3/2021, Bộ Công Thương đã liên tục cập nhật, hoàn thiện, trình xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ 3 phiên bản Quy hoạch Điện VIII với những điều chỉnh rất quan trọng.
Với phiên bản Quy hoạch Điện VIII xin ý kiến tại cuộc họp này, các chuyên gia, nhà khoa học đã thống nhất xác định tổng công suất nguồn điện đến năm 2030 là khoảng 155 ngàn MW, giảm hơn 28 ngàn MW so với phương án trình tháng 3/2021, tương đương giảm gần 800 ngàn tỷ đồng đầu tư. Nếu không tính điện mặt trời, hệ số dự phòng toàn quốc giảm từ hơn 69% xuống còn 43%, đảm bảo an toàn hệ thống.
Cơ cấu nguồn điện phù hợp hơn, giảm năng lượng hóa thạch, tăng năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, đặc biệt là có phương án tăng điện gió trong tổng cơ cấu. Các chuyên gia cũng đồng thuận cao về việc không tính điện mặt trời vào tổng cân đối của hệ thống điện quốc gia do đặc điểm hạn chế về thời điểm, thời gian và đặc tính không ổn định, chưa có giải pháp lưu trữ ổn định của loại hình năng lượng này. Do đó, sẽ khuyến khích phát triển điện mặt trời để đáp ứng các yêu cầu tự sản xuất, tự tiêu dùng.
Phó Thủ tướng cũng nhất trí với nhận định của các chuyên gia, nhà khoa học về việc dự thảo Quy hoạch Điện VIII đã có bước định hình quan trọng về tư duy và giải pháp bố trí nguồn điện phù hợp với đặc điểm từng vùng, miền; hạn chế tối đa đầu tư đường dây và thất thoát trong công tác truyền tải. Theo đó, đã giảm hơn 6.600 km đường dây truyền tải, tương đương khoảng 250 ngàn tỷ đồng đầu tư.
Trong thời gian tới, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương tiếp tục tổ chức các hội nghị, hội thảo để tiếp thu ý kiến góp ý, hoàn thiện dự thảo Quy hoạch Điện VIII. Trong đó, Quy hoạch bám sát để có lộ trình phù hợp thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về giảm phát thải các-bon, bảo vệ môi trường; nghiên cứu các cơ chế, chính sách, giải pháp để sử dụng hiệu quả, hợp lý hơn nguồn năng lượng mặt trời, trong đó ưu tiên phát triển các công nghệ lưu trữ; tập trung phát triển các khu, cụm công nghiệp tại các khu vực có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời; có cơ chế, chính sách phù hợp để hỗ trợ phát triển điện gió ngoài khơi; cơ chế huy động nguồn vốn để phát triển nguồn điện. Đề xuất, làm rõ thêm các phương án để điều hành, đảm bảo an toàn hệ thống.
Phó Thủ tướng Lê Văn Thành khẳng định, Việt Nam quyết tâm chuyển đổi dần, từng bước sang các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ có một hội nghị với các địa phương để thống nhất bố trí các dự án nguồn điện phù hợp với đặc điểm riêng của từng vùng, miền, địa phương.
Bài: Hoàng Nam, Xuân Tùng, Đức Dũng
Ảnh, đồ họa: TTXVN - TTXVN phát
Biên tập: Hà Phương
Trình bày: Hà Nguyễn
05/12/2021 08:30