Ông là Đại tá Dương Niết, sinh năm 1934, nguyên chiến sĩ Tiểu đoàn Bình Ca, Tổ trưởng tổ tiếp quản Sở Cảnh sát Bắc Việt, nguyên Phó hiệu trưởng Trường Trung cao Không quân (nay là Học viện Phòng không - Không quân).
Đại tá Dương Niết quê ở làng Cổ Tiết, xã An Vinh, huyện Quỳnh Phụ (trước là xã Quang Vinh, huyện Quỳnh Côi), tỉnh Thái Bình. Xã An Vinh đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Nằm ven đường 10, trên trục giao thông Thái Bình – Hải Phòng nên ngay từ tháng hai năm 1950, sau khi đánh chiếm Thái Bình, thực dân Pháp đã muốn thôn tính An Vinh, lập bốt, lập tề để tạo hành lang an toàn. Trong lịch sử của xã, thì trong vòng năm tháng (từ tháng 2 đến tháng 7/1950), giặc Pháp đã mở năm cuộc càn quét vào xã. Ngày 19/9/1950, Pháp tập trung hai nghìn quân thiện chiến và dùng sáu máy bay chở quân dù đổ bộ xuống ngã ba Đọ cùng với hàng chục xe lội nước đánh vào xã. Nhưng nhờ hệ thống hào luỹ liên hoàn, kiên cố của “làng kháng chiến”, sự phối hợp chặt chẽ của bộ đội và du kích,... nên các mũi càn quét của địch đều bị bẻ gãy.
Bây giờ về An Vinh, vẫn được nghe các bậc cao niên kể lại những câu chuyện này. Trong đó có cả câu chuyện về tổ gỡ mìn của du kích thôn Hưng Đạo ngâm mình dưới nước, lách bèo trên sông Diêm Hộ, chui vào bốt Cầu Vật để gỡ mìn. Ba người trong tổng số bốn người đi gỡ mìn đêm ấy (4/6/1950) thì ba người hy sinh, chỉ còn một người sống sót - đó là nữ du kích Đào Thị Thự - vợ của Đại tá Dương Niết sau này.
Dương Niết sinh ra trong gia đình có bảy anh chị em, hai trai, năm gái. Khi Pháp lập tề, đốt phá xóm làng, nhà Dương Niết cũng bị giặc đốt rụi. Việc học hành của Dương Niết cũng phải bỏ dở vì toàn bộ trường lớp ở Thái Bình đều đã bị giặc phá huỷ. Cùng với phong trào đấu tranh kháng Pháp của An Vinh, Dương Niết làm quân báo cho xã, rồi đi học lớp quân báo của huyện, sau đó được điều làm quân báo của huyện Quỳnh Côi. Khi đó Dương Niết mười sáu tuổi.
Năm 1953, chàng trai giấu bố mẹ đăng ký tuyển quân để được vào bộ đội. Nhưng vì vóc người nhỏ bé nên phải đến lần tuyển quân thứ chín, cậu mới trúng tuyển, được phiên chế ở Trung đoàn 44 đóng quân ở Thanh Hoá. Tháng 12/1953, Dương Niết cùng đơn vị hành quân lên Điện Biên. Cuối năm nên trời mưa rét, nhưng để giữ bí mật nên đơn vị hành quân đêm, gần năm mươi ngày sau thì tới Tuần Giáo.
Tết năm ấy, chàng trai làng Cổ Tiết cùng đồng đội đón Tết ở Tuần Giáo, sau Tết, thì tham gia làm con đường Thắng Lợi (tên con đường do Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặt) từ Tuần Giáo đi Điện Biên, dài tám mươi hai cây số. Con đường này trước đây người dân phải dùng xe ngựa thồ thì nay được làm để kéo pháo vào Điện Biên Phủ, chuẩn bị cho trận đánh lớn có tính chất quyết định trong lịch sử của toàn dân tộc.
Sau khi con đường hoàn thành, cũng là lúc Dương Niết được bổ sung vào Đại đội 263, Tiểu đoàn 18, Trung đoàn 102, Đại đoàn 308. Từ đây, Dương Niết đã có mặt trong trận đánh lớn nhất ở chiến trường Điện Biên Phủ và tháng 10/1954, vinh dự là một trong số hai trăm mười bốn chiến sĩ tinh nhuệ tiêu biểu của Tiểu đoàn Bình Ca có mặt sớm nhất ở Hà Nội để chuẩn bị cho ngày tiếp quản Thủ đô.
Lúc được phiên chế ở Đại đội 263, Tiểu đoàn 18 – Dương Niết không thể biết không lâu sau đó, mình đã trở thành một chiến sĩ ở Tiểu đoàn Bình Ca (tên gọi khác của Tiểu đoàn 18) – một đơn vị vang danh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặt tên. Và cũng chính trong thời gian tham gia chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ, chàng trai Dương Niết đã lập công trong trận đánh Nà Noọng khi kêu gọi lính Pháp ra hàng. Để rồi sau giải phóng Điện Biên Phủ đã được đơn vị cử đi dự lễ mừng công ở thung lũng Mường Phăng và được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Trận đánh Nà Noọng diễn ra vào ngày 6/5/1954. Nằm ở phía Tây Nam sở chỉ huy Mường Thanh, Nà Noọng có tên cứ điểm là 310. Đây được coi là “con mắt” và lá chắn của sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm mà quân Pháp luôn coi là “bất khả chiến bại”. Hệ thống hầm hào ở đây rất kiên cố, tập trung hoả lực rất mạnh của quân địch. Để đánh được sở chỉ huy của tập đoàn cứ điểm thì trước hết phải tiêu diệt cứ điểm này. Tiểu đoàn 18, Trung đoàn 102 được giao nhiệm vụ quan trọng đó. Trong đó, Đại đội 263 được giao nhiệm vụ chủ công, đánh vào trung tâm tiêu diệt bọn địch trong cứ điểm.
“Tối 6/5/1954, đại đội hành quân đến Nà Noọng. Do mấy ngày trước trời mưa liên tục nên nước ngập giao thông hào, toàn bộ đại đội phải lội trong bùn lầy đến ngang thắt lưng. Nhưng tất cả đều đảm bảo được bí mật. Đến 19 giờ chúng tôi đã chiếm lĩnh xong trận địa, phục kích ở đây chờ lệnh tiến công”, đại tá Dương Niết kể.
Đêm nay, lệnh tiến công của toàn mặt trận đã thống nhất là theo tiếng nổ của quả bộc phá 1.000kg đánh vào đồi A1. Nơi chiến hào đại đội bố trí cách đồi A1 không xa nhưng chờ mãi không thấy tiếng nổ, thì ra quả bộc phá được chôn sâu trong lòng đất nên tiếng nổ và sự chấn động của nó chuyển ra bên ngoài bị hạn chế rất nhiều.
Đúng 20 giờ, pháo của ta bắn cấp tập vào cứ điểm, bọn địch la hét inh ỏi rút hết vào hầm. Khi pháo ngừng bắn, quân ta tiến vào giao thông hào của địch. Địch nguỵ trang cửa hầm bằng bao tải nhuộm đất để nghi binh, trong đêm tối sẽ rất dễ nhầm lẫn là giao thông hào nhằm gây bất lợi cho ta.
Trong khi dẫn tiểu đội tiến và trung tâm, do đã được cảnh báo trước nên anh em rất thận trọng. Đồng chí Nguyễn Như Hoá, tiểu đội phó tiểu đội 1 phát hiện một hầm cũng đang được nguỵ trang có lính Pháp cố thủ, anh bố trí một tổ yểm trợ ở ngoài rồi giao cho tổ của Dương Niết vào giải quyết.
“Khi tôi dẫn tổ đến cửa hầm, súng sẵn sàng lên đạn, đồng chí Thuỳ, một chiến sĩ trong tổ đề nghị ném thủ pháo vào. Nếu ném thủ pháo thì toàn bộ địch ở trong hầm sẽ bị tiêu diệt, nhưng nếu không ném được vào trong thì lại hại chính mình vì vướng bao tải giặc nguỵ trang. Vì vậy tôi đã ngăn lại: - Để tôi gọi, nếu nó ra thì tha cho nó.
Với vốn tiếng Pháp còn nhớ được khi học đệ nhị trường Quang Huy ở huyện Quỳnh Côi, tôi nói: - Giơ tay lên và đi ra khỏi hầm.
Từ cửa hầm, hai cánh tay nhô ra, nhưng có vẻ còn do dự. Tôi nhắc lại: - Ra nhanh. Tên lính Pháp run rẩy bước ra, thấy tên đi trước ra trót lọt, những tên còn lại cũng lần lượt ra theo.
Tôi cho kiểm tra thấy chúng không mang theo vũ khí, nên chỉ đường cho chúng đi tới nơi tập trung tù binh, rồi tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình. Đến 22 giờ ngày 6/5/1954, hầm chỉ huy, điểm cuối cùng của cứ điểm Nà Noọng bị tiêu diệt. “Con mắt” của sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm đã bị chọc thủng, lá chắn đã bị đập tan. Sau này, ngày 6/5 được lấy làm ngày truyền thống của Đại đội 263.
Sau khi Điện Biên Phủ giải phóng (7/5/1954), lễ mít tinh mừng chiến thắng được tổ chức tại thung lũng Mường Phăng. Mỗi đơn vị cử một người tham dự, Dương Niết vinh dự được cử tham gia. Đó là ngày 13/5/1954, khi đó Dương Niết tròn hai mươi tuổi.
“Để tham dự lễ mừng công, chúng tôi phải di chuyển từ khe Hồng Lếch, trong khu rừng phía Tây Mường Thanh ra đến Mường Phăng khoảng trên bốn mươi cây số. Hai ngày đi bộ liên tục thì tới nơi. Chiều hôm trước diễn ra lễ mít tinh, khi chúng tôi đang ngồi ăn cơm dưới tán rừng (cơm do anh nuôi nấu cho mấy nghìn người tới dự mít tinh, thì chỉ có cơm không, không có thức ăn –PV), thì Đại tướng cưỡi ngựa đi qua. Thấy vậy, Đại tướng dừng lại và hỏi:
-Các chú ăn có no không?
Bất ngờ được gặp Đại tướng, thấy phong thái gần gũi của Đại tướng, Dương Niết vui mừng lắm, cậu nhanh nhảu thật thà trả lời:
- Thưa bác, cơm không có thức ăn ạ.
Nghe anh lính trẻ trả lời, Đại tướng cười nói:
-Thế nên mới hỏi các chú ăn có no không, chứ có hỏi ăn có ngon đâu!
Cuộc gặp chỉ diễn ra rất nhanh như thế, nhưng trước sự quan tâm và tình cảm ân cần của một vị tướng đối với những người lính của mình đã khiến Dương Niết vô cùng xúc động và nhớ mãi. Ông chỉ tiếc trong lần gặp đó không có bức ảnh nào để lưu lại vì thời điểm đó không có điều kiện chụp ảnh. Bây giờ ở nhà ông, bức ảnh chụp chung với Đại tướng và được Đại tướng bắt tay, được treo trang trọng ở phòng khách. Đó là lần thứ hai ông được gặp Đại tướng, nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (năm 2004), ông đi cùng đoàn mười cựu chiến binh - chiến sĩ Điện Biên do Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp dẫn đầu đến thăm và chúc thọ Đại tướng 94 tuổi. Đại tá Dương Niết còn một lần nữa được gặp Đại tướng, đó là lần ông tổ chức cho anh em cựu chiến binh đại đội đến thăm Đại tướng cũng tại nhà riêng ở Hoàng Diệu.
Năm nay Đại tá Dương Niết đã ở tuổi tám mươi tư. Trong cuộc đời quân ngũ, ông tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, ông tham gia tiếp quản sân bay Biên Hoà) và tham gia chiến dịch Tây Nam năm 1979. Nhưng những khoảnh khắc đáng nhớ nhất chính là những ngày cùng đồng đội của Tiểu đoàn Bình Ca trở về tiếp quản Thủ đô Hà Nội tháng 10 năm 1954.
“Tháng 9/1954, Đại đoàn 308 vinh dự được Bác Hồ giao nhiệm vụ về tiếp quản Thủ đô. Tiểu đoàn Bình Ca được giao nhiệm vụ đặc biệt, vào trước các vị trí Pháp đóng quân ở Hà Nội để bảo vệ nhân dân, chống địch phá hoại; bảo đảm cơ sở hạ tầng của thành phố để khi bộ đội chính quy vào tiếp quản được toàn vẹn; bên cạnh đó là không để chúng cưỡng bức dân di cư trước khi rút khỏi Hà Nội.
Có hai trăm mười bốn cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn Bình Ca tuổi đời còn rất trẻ, chỉ từ mười chín đến hai mươi hai được lựa chọn để làm nhiệm vụ đặc biệt đó. Chúng tôi đã vào Hà Nội với danh nghĩa là cảnh vệ thành theo yêu cầu của Pháp bởi lúc đó tinh thần binh lính Pháp ở Hà Nội đang rất hoang mang sau chiến thắng vang dội của ta ở Điện Biên Phủ. Lính Pháp sợ nhất bộ đội chính quy ở Điện Biên Phủ về. Phía Pháp cũng yêu cầu khi vào Hà Nội, bộ đội ta không mang súng trường, trung liên, chỉ mang tiểu liên tuyn (loại súng của Pháp mà ta thu được ở chiến trường). Súng này chỉ bắn được trong tầm ngắn.
Trong hành trang mang theo, ngoài những vật dụng cần thiết, chúng tôi mang theo cả giấy vệ sinh, đinh mắc màn…và một cái chổi để phòng khi công ty vệ sinh thành phố chưa làm việc thì sẽ dọn quét đường phố, để thành phố luôn sạch sẽ khi đại quân vào tiếp quản.
Ngày 7/10/1954, chúng tôi hành quân về tới làng Vân, phía Bắc cầu Đuống. Điều chúng tôi nhìn thấy đầu tiên là cánh đồng rau xanh mơn mởn, thứ mà trong suốt mấy năm qua sống ở rừng chúng tôi luôn ước muốn. Bà con biết bộ đội về rất phấn khởi, có người mang gạo, gà, có người mang rau đến.
Nhưng bộ đội khi vào tiếp quản Thủ đô đã có quy định là không được nhận quà của bất kỳ ai. Nhưng các bà, các chị vẫn cứ mang tới, anh nuôi từ chối mãi không được.
Theo hiệp định Trung Giã, Pháp sẽ đón chúng tôi tại cầu Đuống. Sáng 8/10/1954, đúng 8 giờ, những chiến sĩ của Tiểu đoàn Bình Ca đã có mặt ở phía bắc cầu Đuống. Đứng chờ khoảng 15 phút, một hạ sĩ quan của Pháp ra mời chúng tôi vào cầu, lễ đón chính thức được tổ chức trên cầu Đuống. Tại đây, một viên quan ba Pháp và đoàn tuỳ tùng ra đón”.
Sau lễ đón, ba mươi chiếc xe GMC của Pháp đưa các chiến sĩ Tiểu đoàn Bình Ca vào Hà Nội. Trời Hà Nội hôm đó lất phất mưa bay. Lấy lý do đó, viên quan ba Pháp yêu cầu các xe phủ kín bạt, mục đích là để dân không nhìn thấy bộ đội trên xe. Nhưng một số anh em ngồi trên đầu xe vén bạt nhô người ra, khi đoàn về đến Gia Lâm, người dân ùa ra đường hoan hô rất đông. Viên quan ba Pháp tỏ ra khó chịu và cho xe chạy nhanh hơn.
Xe vào đến Hà Nội thì về thẳng trụ sở Ban Liên hiệp đình chiến, đóng ở nhà thương Bến Thuỷ (Bệnh viện 108 bây giờ). Tại đây, đoàn được chia làm 35 tổ, mỗi tổ từ ba đến năm người sẽ di chuyển về 35 vị trí có quân Pháp đóng. Đây là những vị trí quan trọng, Pháp đã chiếm giữ ngay từ khi chúng đặt chân đến Hà Nội, như: Phủ toàn quyền, Tòa thị chính, Tòa án tối cao, Sở Cảnh sát Bắc Việt, nhà máy điện, nhà máy nước, nhà máy đèn Bờ Hồ, ga Hàng Cỏ, nhà tù Hỏa Lò, Bệnh viện Bạch Mai… Dương Niết là Tổ trưởng tổ ba người tiếp quản Sở Cảnh sát Bắc Việt ở số 89 đường Trần Hưng Đạo (nay là Sở Công an thành phố Hà Nội).
“Khi tới Sở Cảnh sát Bắc Việt, chúng tôi thấy địch căng một băng khẩu hiệu rất to trên lan can tầng hai với dòng chữ: “Có đi vào Nam hay là ở lại để đi vào trại của Lý Bá Sơ?” (đồng chí Lý Bá Sơ là giám đốc trại giam của ta). Đây là một thủ đoạn thúc ép dân di cư. Nhưng khi thấy chúng tôi trao đổi với nhau là không thể để như thế được thì chúng đã phải cho gỡ xuống”.
Trong hai ngày 8 và 9/10/1954, trước ngày bộ đội của ta về tiếp quản Thủ đô, Dương Niết và nhóm của mình đã chứng kiến một số việc mà ông còn nhớ mãi.
Trong những ngày đó, việc ăn uống của cán bộ, chiến sĩ do anh nuôi nấu. Ngày hai bữa, Pháp phải chở xe đưa đến từng nơi, nhưng không bữa nào đưa đi hết 35 tổ. Xe đưa cơm chỉ đến khoảng một nửa tổng số vị trí, còn lại thì “quên”, làm nhiều anh em bị đói. Tại Sở Cảnh sát Bắc Việt, ngay trong chiều 8/10, chúng cũng không cho xe đưa cơm tới.
Nhưng tối hôm ấy, anh em vẫn tụ lại hát hò, vui chơi để cho quên cái đói và cảnh giác. Trong lúc đó có một anh lính Pháp cũng ghé vào xem hát và nói chuyện. Qua câu chuyện được biết anh ta là người Đức, bị Pháp bắt làm tù binh trong chiến tranh thế giới thứ II rồi đưa sang Việt Nam. Ở nhà anh lính còn mẹ và em gái nhưng mấy năm nay không có tin tức gì, anh ta muốn ở lại để có thể được về nước sớm hơn.
“Trong khi đang nói chuyện thì viên quan Ba bắt gặp và đã đánh anh lính, cấm không cho nói chuyện. Nhưng đến đêm, anh ta lại lẻn xuống, ném vào chỗ chúng tôi vài bao thuốc lá. Có lẽ, chiều hôm đó người lính đã nhìn thấy anh em khi đang nói chuyện lấy thuốc lá Cẩm Thuỷ (Thanh Hoá) ra cuốn rồi hút. Chiều ngày 9/10, khi Pháp rút đi, chúng điểm quân không có mặt, sau khi lùng sục tìm mãi thì thấy anh ta trốn trong một cái tủ ở tầng hai. Chúng bắt, đánh một trận rồi đưa lên xe đi về Hải Phòng.
Cũng trong ngày 9/10, xảy ra một việc nữa ở tổ Cảnh sát Bắc Việt. Tôi còn nhớ, khi đồng chí Nguyễn Văn Phiên vừa mới bước ra cửa thì có một phụ nữ từ đâu chạy tới, ôm chầm lấy, khóc nức nở, trách móc: “Anh ơi, anh đi đâu lâu thế mà chẳng nói năng gì với em?”. Người dân thấy vậy vây quanh rất đông.
Đồng chí Phiên ngớ người, nói: - Tôi có biết O là ai mô. Một người dân tiến lại phía người phụ nữ hỏi: - Thế cô quê ở đâu? Cô gái nói quê ở Hải Dương. Còn đồng chí Phiên thì quê ở Nghệ An. Khi ấy, mọi người ồ lên: “Cô nhầm rồi”. Lúc đó cô ta mới buông đồng chí Phiên ra rồi lặng lẽ bước đi. Đây là một trong những thủ đoạn của bọn chúng hòng lôi kéo bộ đội nhằm phá hoại ta.
Chiều ngày 9/10/1954, khi toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi cầu Long Biên thì cả Hà Nội bừng lên, tràn ngập cờ hoa. Ngày 10/10/1954 là một ngày hội lịch sử của toàn dân tộc –Thủ đô hoàn toàn giải phóng.
“Nói về cảm xúc của những ngày cách đây sáu mươi tư năm, tôi cũng không biết tả lại như thế nào, chỉ có điều rằng, chúng tôi cảm nhận rất rõ là những cảm xúc khao khát hòa bình, tự do, trong niềm vui vô bờ bến. Chúng tôi là những người dân ở nông thôn nghèo, đi bộ đội thì ở rừng, lúc hành quân về tiếp quản Hà Nội rất bỡ ngỡ, ngay như bật công tắc điện và các thiết bị trong sinh hoạt của thành phố cũng chưa biết.
Kẻ địch ráo riết thực hiện âm mưu trao trả chúng ta một Hà Nội tan hoang, xơ xác, rỗng tuếch thì việc đầu tiên chúng phá chính là những nơi này. Có thể nói đây là cuộc chiến đấu không có tiếng súng nhưng rất gay go, phức tạp. Kẻ địch muốn phá hoại hoặc lấy đi hết. Ta thì muốn giữ lại tất cả. Phương thức đấu tranh phải tránh nổ súng.
Chúng tôi bước vào cuộc chiến đấu sẽ phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách không lường hết được, kể cả việc bị chúng thủ tiêu, nhưng chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, bảo vệ được dân và giữ lại tài sản, không để địch phá hoặc lấy đi. Sau khi tiếp quản, điện, nước không bị cắt. Mọi sinh hoạt, hoạt động của thành phố vẫn bình thường”, đại tá Dương Niết nhớ lại.
Bài, ảnh, video: Xuân Phong
Trình bày: N.H
Trong bài có sử dụng một số ảnh và tư liệu do Đại tá Dương Niết cung cấp.
27/10/2018 08:00