Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo nên trong suốt chiều dài lịch sử. Những giá trị ấy kết tinh trong các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, tạo thành những truyền thống, những phong tục, tập quán, những ứng xử... làm nên bản sắc của dân tộc. Thực tiễn phát triển đất nước đã khẳng định vị thế quan trọng của văn hóa, con người trong chiến lược phát triển quốc gia. Văn hóa không chỉ giới hạn tầm vóc của mình trong chiều sâu những phẩm giá tinh thần mà nó còn là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển đất nước.
Xuất phát từ những điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam có những giá trị, phẩm chất độc đáo. Đó là nồng nàn yêu nước nhưng hết sức nhân văn; đó là anh hùng trong chiến đấu nhưng tinh tế trong ứng xử; đó là sáng tạo trong lao động nhưng giản dị trong lối sống; đó là tinh thần cố kết cộng đồng, là lòng khoan dung, cởi mở, giàu năng lực tiếp biến... Những giá trị văn hóa ấy đã gắn kết các cá nhân thành cộng đồng, cùng chung tay dựng xây đất nước, cùng ra sức bảo vệ non sông, cùng chia sẻ những nỗi đau trong thiên tai, địch họa, cùng khát vọng về một cơ đồ tươi sáng “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Người đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng, tính đi trước của văn hóa, coi đây là ngọn lửa soi đường, dẫn lối cho dân tộc đi đến thắng lợi: “Số phận dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Như vậy, văn hóa là toàn bộ những sáng tạo, phát minh về vật chất và tinh thần của con người nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của cá nhân, cộng đồng và rộng ra là cả quốc gia, dân tộc.
Và “Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Với xã hội, văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu cái nhiệm vụ của mình và biết hưởng cái hạnh phúc của mình nên được hưởng”.
Và với Người, xây dựng nền văn hóa, không chỉ thuần túy quan tâm đến ngành hay lĩnh vực văn hóa riêng biệt mà phải chú trọng đến sự đồng bộ của nhiều yếu tố, từ chính trị, kinh tế, tâm lý, luân lý, xã hội. Trong "Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951", Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị". Trong Di chúc để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Với tư cách là hệ giá trị định hướng điều chỉnh nhận thức tư duy, hành vi của mỗi cá nhân cả cộng đồng và xã hội, văn hóa có sức mạnh to lớn: dưỡng tư tưởng đạo đức và nhân cách con người. Là bộ phận cấu thành đặc sắc của văn hóa, văn học nghệ thuật phải gắn bó mật thiết với đời sống, đấu tranh quyết liệt giữa cũ và mới, giữa cách mạng và phản cách mạng; giữa tích cực và tiêu cực. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng:
"Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong".
Quan điểm về người nghệ sĩ - chiến sĩ là đóng góp có ý nghĩa cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mặt lý luận và thực tiễn xây dựng nền văn hóa, văn nghệ mới, xây dựng con người Việt Nam.
Những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa trở thành kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới, tiến hành phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã từng bước nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò của văn hóa và việc phát huy nguồn lực văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã mở đầu công cuộc đổi mới. Đại hội VII tiếp tục chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhằm đưa đất nước đi vào thế ổn định và phát triển. Sau một thời gian khủng hoảng kinh tế - xã hội và sau những biến động phức tạp của tình hình chính trị quốc tế, hai kỳ Đại hội này ưu tiên tập trung xác định đường lối phát triển kinh tế, ổn định xã hội; văn hóa mặc dù được quan tâm phát triển, nhưng chưa được xem là vấn đề trọng tâm. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 7/1998) đã ban hành nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, cho thấy chuyển biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức của Đảng về tầm quan trọng của văn hóa bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng Đảng.
Nghị quyết khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội”. Để cụ thể hóa việc phát huy nguồn lực văn hóa cho phát triển, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã nhấn mạnh đến giải pháp xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa. Trong đó, Nghị quyết đề cập đến chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Bước phát triển trong quan điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa.
Vai trò nguồn lực văn hóa đối với phát triển đã được đúc kết trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2011) của Đảng đã tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014, về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Trong Nghị quyết này, Đảng nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng con người toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đồng thời bổ sung các nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Những nhiệm vụ này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát huy nguồn lực văn hóa trong sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội.
Nhận thức mới có tính đột phá của Đảng về nguồn lực văn hóa đối với phát triển được thể hiện ở việc khẳng định vai trò của văn hóa trong chính trị và trong kinh tế. Chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực then chốt của xã hội phải được đặt trên nền tảng văn hóa và phải phát huy vai trò của nguồn lực văn hóa đối với việc phát triển hai lĩnh vực trên. Đảng ta nhấn mạnh: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Đây chính là sự tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Nguồn lực văn hóa được kết tinh tập trung nhất là ở con người. Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Đây chính là cách tiếp cận tổng thể về văn hóa để nhìn rõ hơn sức mạnh và sự lan tỏa của văn hóa, của các giá trị chân - thiện - mỹ vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, tạo nên sự phát triển hài hòa, bền vững của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
“Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 432/QĐ-TTg, ngày 12/42012) cũng khẳng định quan điểm con người là trung tâm của phát triển bền vững; nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững; cần đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân…
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, cụ thể hóa các đột phá chiến lược này cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới, trong đó nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của nguồn lực văn hóa, nhất là nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong bối cảnh mới không ít thách thức, nguy cơ với nhiều biến động bất ngờ, khó lường, Đảng ta nhấn mạnh định hướng phát triển đất nước giai đoạn mới cần “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, bởi “tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”.
Như vậy, có thể thấy, nhận thức về nguồn lực văn hóa trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước của Đảng ta ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc quan tâm chú trọng phát triển nguồn lực văn hóa, con người, phát huy tối đa tiềm năng “sức mạnh mềm” của đất nước là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển bền vững, đồng thời nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Phạm Duy Đức (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), trong mỗi bước ngoặt của cách mạng, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng phát huy vai trò của văn hóa để tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, nhằm biến khát vọng thực hiện các mục tiêu chính trị thành hiện thực. Trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược trước đây, Đảng ta đã tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và nhân dân để khơi dậy khát vọng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống Pháp là tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”; trong kháng chiến chống Mỹ là “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”... Tinh thần đó, khát vọng đó đã giúp dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức để giành được những chiến thắng mang tầm thời đại. Trải qua 35 năm của công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành công, chúng ta thấy rằng trong lĩnh vực văn hóa còn nhiều khó khăn, hạn chế phải tháo gỡ. Một lần nữa, chúng ta cần phải chấn chỉnh lại đội ngũ, khắc phục những yếu kém để tiến lên phía trước. Muốn vậy, cần tập trung huy động mọi sự sáng tạo, tinh thần đoàn kết dân tộc, mọi nguồn lực vật chất và tinh thần nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 (22/8/2016), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Với văn hóa, không có sự cao thấp, chỉ có sự đa dạng. Sức mạnh mềm của Việt Nam được thể hiện trước hết ở sức hấp dẫn, tỏa ra từ các giá trị văn hóa gồm các giá trị vật thể, phi vật thể, giá trị tinh thần và giá trị con người Việt Nam. Chúng ta phải phát huy được những giá trị đó để tạo nên “thương hiệu” cho quốc gia, có sức thu hút thế giới bên ngoài, góp phần nâng cao tinh thần tự tôn dân tộc, sự tự tin trong giao tiếp và quảng bá rộng rãi giá trị văn hóa của Việt Nam ra thế giới.
Gần đây nhất, văn kiện Đại hội XIII khẳng định cần phải “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới, gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau”. Đây thực sự là bước đột phá, kết quả của chặng đường đổi mới tư duy phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam.
Việc phát huy sức mạnh mềm văn hóa đã được ngành văn hóa quan tâm, quán triệt nhằm chuyển hóa hiệu quả các nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa của đất nước, từ đó phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, đẩy mạnh quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Để làm được điều này, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã bước đầu rà soát, đối chiếu và xác định 8 trụ cột tài nguyên văn hóa có khả năng chuyển hóa thành sức mạnh mềm văn hóa tương thích với tiêu chí chung của thế giới.
Việt Nam là quốc gia có thế mạnh về tài nguyên mềm văn hóa phong phú. Nhận thức rõ về thế mạnh này, trong thời gian gần đây, ngành đã tích cực khai thác ra soát và xác định được 8 nguồn tài nguyên văn hóa. Cụ thể là các di sản thiên nhiên thế giới, danh lam thắng cảnh, vườn quốc gia; các di sản văn hóa vật thể nằm trong hệ thống khảo sát Soft power 30 (danh sách xếp hạng 30 quốc gia đứng đầu về sức mạnh mềm); các di sản văn hóa phi vật thể nằm trong hệ thống khảo sát Soft power 30; các danh nhân và giá trị văn hóa; nguồn nhân lực và các sản phẩm văn hóa; cơ sở hạ tầng và không gian văn hóa; các lễ hội mới, sự kiện văn hóa; tổ chức văn hóa, cộng đồng sáng tạo văn hóa (cộng đồng văn hóa cơ sở).
Nhìn chung, hoạt động của ngành văn hóa, thể thao và du lịch đang từng bước hình thành cơ chế chuyển hóa nguồn lực mềm văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa. Nhờ sự phối hợp của các kênh chuyển hóa, truyền dẫn như truyền thông, internet..., các di sản văn hóa phi vật thể, vật thể, cũng như di sản thiên nhiên đã trở thành sức hấp dẫn, thu hút, góp phần gia tăng sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam. Nhờ có nguồn tài nguyên văn hóa và tài nguyên thiên nhiên phong phú nên ngành du lịch có nhiều tiềm năng trong thúc đẩy phát triển du lịch theo hướng bền vững. Trên thực tế, đây là một trong những lý do hàng đầu hấp dẫn du khách quốc tế đến với Việt Nam.
Ngành cũng đẩy mạnh hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế, văn hóa để văn hóa trở thành thành “tấm danh thiếp” về vẻ đẹp, sức hấp dẫn, khả năng lôi cuốn của con người, đất nước Việt Nam. Đặc biệt, trong thời điểm đất nước đang gặp khó khăn do đại dịch cũng là lúc các giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của dân tộc ta được khơi dậy, phát huy mạnh mẽ, được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Dù vậy, cơ chế chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa vốn rất phong phú, giàu có của Việt Nam thành sự đa dạng, giàu bản sắc và có khả năng cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa còn thiếu đồng bộ. Một hệ sinh thái thực sự để các ngành công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, kênh chuyển hóa sức mạnh mềm văn hóa của Việt Nam ra thế giới vẫn chưa hoàn thiện.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Duy Bắc, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho biết: Để phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam hiện nay, trước hết, cần đặc biệt quan tâm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, bởi đây là cội rễ của sức mạnh mềm văn hóa quốc gia. Để đảm bảo những giá trị cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc, cần quan tâm phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa đương đại phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, tiến bộ để tiếp tục gia tăng thêm cơ tầng sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam và lan tỏa sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam ra thế giới… Bên cạnh đó, để gia tăng sức mạnh mềm văn hóa, phải gắn kết chặt chẽ văn hóa với phát triển kinh tế; “Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, phấn đấu đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, giữ gìn tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau”. Du lịch, nhất là du lịch văn hóa chính là cách thức, là con đường có hiệu quả cao để phát huy sức mạnh mềm văn hóa, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, thu hút du khách quốc tế thăm quan, du lịch, nghỉ dưỡng, đầu tư, kinh doanh, gia tăng nguồn thu nhập cho các địa phương và đất nước.
Mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Chiến lược này cũng là một nội dung sẽ được quán triệt tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 diễn ra ngày 24/11.
Chia sẻ về Chiến lược này, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh: Trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm của đất nước, từ nhận thức, quán triệt các quan điểm của Đảng về văn hóa, Bộ đã xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Trong Chiến lược không tham vọng đặt ra quá nhiều mà chỉ khu trú lại những nhiệm vụ có tính chất trọng tâm, trọng điểm, cố gắng tháo gỡ điểm nghẽn, những vấn đề khó khăn. Theo đó, có 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện Chiến lược.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho rằng, đầu tiên là phải nâng cao nhận thức đầy đủ nhất về các quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa để tuyên truyền, phát triển và xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trước tình hình mới.
Văn hóa là lĩnh vực rộng lớn. Quản lý và điều hành văn hóa, lãnh đạo văn hóa trong bối cảnh mới phải đổi mới tư duy, thay vì làm văn hóa phải chuyển sang quản lý nhà nước về văn hóa. Muốn vậy, phải hoàn thiện về thể chế, chính sách và khuôn khổ pháp lý. Đó là một trong ba đột phá chiến lược mà Đảng ta đã xác định. Ngành văn hóa cần rà soát lại toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật đã thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng để xem lĩnh vực nào đang thiếu, cần phải bổ sung, hoàn thiện. Cần phát hiện được những “điểm nghẽn” để xây dựng quy định pháp luật, nói rộng hơn là các luật, nghị định, thông tư theo hướng tiếp cận xây dựng luật là phải tạo ra động lực phát triển.
Tiếp theo, tập trung phát triển công nghiệp văn hóa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm sẽ được ngành văn hóa đẩy mạnh triển khai trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, ngành phải xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để tạo ra động lực phát triển cho đất nước. Các môi trường văn hóa phải hướng vào có trọng tâm, trọng điểm, toàn diện nhưng phải có điểm nhấn.
Tiếp đến, ngành nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của văn hóa, bao gồm các hoạt động văn học nghệ thuật với tư cách bồi dưỡng, xây dựng những giá trị chân - thiện - mỹ, hướng con người tới cái đẹp; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc anh em, vừa phong phú, đa dạng trong một chỉnh thể thống nhất. Ngoài ra cần nâng cao chất lượng của các đoàn nghệ thuật, trung tâm nghệ thuật quốc gia. Có những vấn đề nghệ thuật mang tính hàn lâm phải được phổ biến nhưng cũng phải chú ý đến văn hóa quần chúng, từ các phong trào của quần chúng để bổ sung, làm phong phú thêm đời sống văn hóa nghệ thuật.
Một nhiệm vụ hết sức quan trọng nữa của ngành là bảo vệ và phát huy giá trị di sản. Di sản văn hóa là những báu vật của quốc gia và chúng ta phải có trách nhiệm giữ gìn. Những di sản văn hóa được UNESCO công nhận, di tích cấp quốc gia đặc biệt... phải được tôn tạo, giữ gìn và phát huy. Để từ đó, các di sản kết nối con người tới quá khứ, hiện tại và tương lai, góp phần giúp chúng ta hun đúc cốt cách, hồn cốt dân tộc. Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh: Du khách quốc tế đến Việt Nam một phần vì văn hóa, mong muốn khám phá chiều sâu văn hóa, vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và sự mến khách; tìm hiểu những giá trị nghệ thuật riêng có của nước ta...
Tiếp theo là nhiệm vụ phát triển công nghiệp văn hóa. Lĩnh vực này chúng ta chưa đạt được như mong muốn, yêu cầu đặt ra sắp tới khi triển khai Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam là công nghiệp văn hóa phải đạt được tỉ lệ 7% trong GDP.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng: Thời gian tới cần tăng cường hội nhập, giao lưu quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra nước ngoài. Trong quan điểm hội nhập, ngành văn hóa chú ý nhiều hơn đến kiều bào Việt Nam ở nước ngoài; tiếp thu, chọn lọc những giá trị văn hóa tinh hoa của nhân loại phù hợp với tình hình mới.
Điểm tiếp theo là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bởi cơ cấu đội ngũ của chúng ta chưa đạt được như mong muốn. Vì vậy, ngành phải nỗ lực xây dựng, nâng cao chất lượng đào tạo, tập trung thực hành tốt công việc, trong đó có yêu cầu mỗi cán bộ văn hóa trên tinh thần tự soi, tự sửa, đi đầu, thực hiện chủ trương nêu gương, để mỗi cán bộ văn hóa phải là người tiêu biểu trong đời sống văn hóa.
Về nhiệm vụ ứng dụng khoa học công nghệ, cần phải xác định đây là sức mạnh để ngành đưa được các thông điệp, giá trị văn hoá đến với đông đảo công chúng.
Cuối cùng, ngành văn hóa cần phải đầu tư, tìm kiếm các nguồn lực, trong đó nguồn lực đầu tư công của Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với nguồn lực xã hội hóa để huy động sức mạnh của toàn xã hội, tạo hạ tầng đồng bộ cho phát triển văn hóa.
Bài: Thanh Giang - Thu Phương - Phương Anh
Ảnh, đồ họa: TTXVN - TTXVN phát
Biên tập: Kỳ Thư
Trình bày: Nguyễn Hà
21/11/2021 05:30