Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái, quốc phòng - an ninh và đối ngoại của cả nước. Phát triển Tây Nguyên nhanh, bền vững là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước. Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị khóa IX và khóa XI, các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt hơn các tiềm năng, lợi thế của vùng Tây Nguyên. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vùng Tây Nguyên hiện vẫn còn không ít khó khăn, thách thức lớn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế.
Vùng Tây Nguyên có 5 tỉnh, gồm: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng; với diện tích tự nhiên là 54.548 km2, chiếm 1/6 diện tích tự nhiên của cả nước. Tây Nguyên có khí hậu, thổ nhưỡng và nhiều tài nguyên, khoáng sản quý hiếm mà không nơi nào có được. Đặc biệt là khoảng 1 triệu ha đất đỏ bazan màu mỡ, hơn 3 triệu ha rừng, chiếm 35,7% diện tích rừng cả nước, và khoảng 10 tỉ tấn trữ lượng bôxit, chiếm 90% trữ lượng bôxit cả nước.
Tây Nguyên được biết đến như là một vùng đất huyền thoại, là nơi sinh sống của gần 6 triệu người, trong đó có 52 dân tộc thiểu số (với gần 2,2 triệu người). Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên có truyền thống đoàn kết, đấu tranh cách mạng rất kiên cường; có nền văn hóa dân tộc vừa đa dạng, phong phú, vừa có nhiều nét đặc sắc riêng.
Đây cũng là một địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước, thuộc tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, là "phên dậu phía Tây của Tổ quốc", là "nóc nhà của Đông Dương".
Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, cách đây 20 năm, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW và 10 năm sau, Bộ Chính trị khóa XI ban hành Kết luận số 12-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2010 và thời kỳ 2011 - 2020.
Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị khóa IX và khóa XI, các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt hơn các tiềm năng, lợi thế của vùng Tây Nguyên. Quy mô kinh tế toàn vùng được mở rộng, năm 2020 đạt khoảng 287 nghìn tỷ đồng, gấp khoảng 14 lần năm 2002; GRDP bình quân giai đoạn 2002 - 2020 là 7,98%, cao nhất trong các vùng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng dịch vụ; công nghiệp phát triển nhanh. Nông nghiệp trở thành vùng sản xuất nông sản lớn, với nhiều mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu của cả nước như cà phê, cao su, tiêu, cây ăn quả...
Trong toàn vùng, văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ. Đời sống văn hóa của người dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống được phát huy. Công tác giảm nghèo từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm khá. Công tác quản lý, bảo vệ phát triển rừng, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước đã được các cấp, ngành, địa phương chú trọng và được xác định là vấn đề quan trọng, cấp thiết đối với sinh kế của người dân trong vùng. Quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên được giữ vững; công tác xây dựng Đảng được quan tâm; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên được nâng lên; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được nâng cao, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố.
Như thế, những tiềm năng, lợi thế của vùng đã được phát huy, và làm nên những thành tựu chung đó là sự đóng góp từ lợi thế, tiềm năng của riêng mỗi địa phương trong vùng. Trong đó, nằm ở phía Bắc của vùng Tây Nguyên, đến nay tỉnh Kon Tum đã phá được thế “ngõ cụt” bằng các tuyến giao thông kết nối với các tỉnh duyên hải miền Trung và khu vực Tây Nguyên. Diện mạo đô thị từng bước đổi mới, thị xã Kon Tum đã được tập trung phát triển và thành lập thành phố Kon Tum vào năm 2010 và hiện đã đạt tiêu chí đô thị loại II; chia tách, thành lập thêm được 3 huyện mới, nâng tổng số đơn vị hành chính từ 7 huyện, thị xã năm 2002 lên 10 huyện, thành phố vào năm 2021.
Gia Lai là tỉnh miền núi, biên giới, có tiềm năng rất lớn trong các địa phương vùng Tây Nguyên. Tỉnh có diện tích rộng và dân số đông, được thiên nhiên ưu đãi, đất đai màu mỡ, có tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo. Thời gian tới, định hướng của tỉnh là phát triển nhanh các lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp chế biến nông - lâm sản, tập trung thu hút những dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch.
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai Hồ Phước Thành, Gia Lai có diện tích nông nghiệp lớn, không phát triển chiều rộng mà tập trung phát triển theo chiều sâu. Nhưng hiện trên địa bàn tỉnh có một số loại cây trồng kém hiệu quả, đề nghị được chuyển đổi diện tích này sang trồng các loại cây ăn quả có giá trị cao. Chăn nuôi đang tập trung vào dự án chăn nuôi đại gia súc, nhưng gặp khó khăn trong đánh giá tác động môi trường.
Nằm ở vị trí trung tâm vùng Tây Nguyên, Đắk Lắk từ điểm xuất phát và mức tăng trưởng thấp, cơ cấu lạc hậu, nhưng qua từng giai đoạn đã có bước chuyển dịch khá, phát triển theo hướng đa dạng, với quy mô, chất lượng, hiệu quả ngày càng tăng. Đến năm 2020, toàn tỉnh đã nhựa hóa, bê-tông hóa được 96,01% đường tỉnh lộ; 91,57% đường huyện; 64,96% đường xã, liên xã; 100% xã có đường nhựa đến trung tâm. Đến nay, 99,5% số thôn, buôn có điện và 99,8% số hộ được dùng điện. Giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn, trong đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh giảm bình quân 5%/năm.
Theo ông Y Thông, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, để tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới, tỉnh Đắk Lắk cần ưu tiên nguồn lực, chính sách, cơ chế… để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân phát huy nội lực, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống và thể hiện được vai trò chủ thể trong xây dựng nông mới.
Với Đắk Nông, đây là địa phương có năng suất hồ tiêu lớn nhất cả nước với hơn 33.000 ha, đạt sản lượng trên 60.000 tấn. Nhờ phát triển trên nền đất bazan màu mỡ nên thành phần khoáng có trong hạt tiêu của Đắk Nông cao hơn so với các vùng trồng tiêu khác. Đắk Nông được cộng đồng hồ tiêu trong và ngoài nước đánh giá cao, là một trong những địa phương dẫn đầu phong trào sản xuất hồ tiêu sạch, an toàn… Tháng 11/2021, sản phẩm hạt tiêu “Đắk Nông” được Cục Sở hữu trí tuệ chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý. Chỉ dẫn địa lý dùng để chỉ dẫn cho các sản phẩm tiêu đen, tiêu đỏ, tiêu trắng và được bảo hộ trên toàn tỉnh Đắk Nông. Đây là chỉ dẫn địa lý đầu tiên của tỉnh Đắk Nông, đánh dấu thành công lớn trong việc khẳng định chất lượng, vị thế của hồ tiêu trên thị trường.
Để phát triển nông nghiệp bền vững, thời gian tới, ông Hồ Văn Mười, Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông cho rằng, tỉnh sẽ đẩy mạnh cơ cấu nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng, thúc đẩy phát triển các cây trồng có lợi thế; đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, phát triển mạnh kinh tế tập thể và tập trung đầu tư phát triển hạ tầng nông nghiệp.
Còn Lâm Đồng được đánh giá là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về diện tích ứng dụng công nghệ cao và trở thành "điểm sáng" về sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của cả nước. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Lâm Đồng là khu vực năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thị trường có nhiều tiềm năng lớn. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khẳng định, Lâm Đồng có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng ở vùng Tây Nguyên, giữ vai trò kết nối với 3 vùng là Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ nên cũng cần được quan tâm đầu tư phát triển xứng tầm.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vùng Tây Nguyên hiện vẫn còn không ít khó khăn, thách thức lớn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thiếu bền vững, có xu hướng chậm lại. Thu nhập bình quân đầu người thấp nhất cả nước. Nhiều di sản văn hóa dân tộc đang đứng trước nguy cơ bị mai một, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển. Công tác chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế cơ bản còn thấp so với mức trung bình của cả nước. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, vấn đề tôn giáo, dân tộc vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp...
Để có thể phát huy ở mức cao nhất tiềm năng, lợi thế của vùng Tây Nguyên cần có bước đột phá. Vì thế, việc Bộ Chính trị ban hành, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW về Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với vùng; đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong vùng trong bối cảnh phát triển mới. Nghị quyết mới này là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng cho sự ra đời của các cơ chế, chính sách mới nhằm khai thác và phát huy ở mức cao nhất tiềm năng, lợi thế cho phát triển nhanh và bền vững toàn vùng và các địa phương trong vùng thời gian tới.
Tại Nghị quyết 23-NQ/TW, Bộ Chính trị yêu cầu, cần phải nhận thức rõ, vùng Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái, quốc phòng - an ninh và đối ngoại của cả nước. Phát triển Tây Nguyên nhanh, bền vững là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là nhiệm vụ quan trọng của cả nước, trước hết là của các địa phương trong vùng và vùng Duyên hải miền Trung, vùng Đông Nam Bộ. Xây dựng, phát triển vùng Tây Nguyên phải kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, gắn kết chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng - an ninh và tăng cường công tác đối ngoại. Lấy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội làm nền tảng cho việc giữ vững quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị - xã hội.
Phát triển vùng Tây Nguyên phải phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, bảo đảm thống nhất với hệ thống quy hoạch quốc gia, phù hợp với chiến lược quốc gia về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế vùng gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số. Chú trọng khôi phục, phát triển rừng gắn với giữ vững, bảo vệ rừng, ổn định, nâng cao đời sống, sinh kế của người dân gắn với rừng. Ổn định dân cư và tạo việc làm tại chỗ cho người dân gắn bó với quê hương. Ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, công nghiệp chế biến nông sản; phát triển bền vững công nghiệp khai thác, chế biến bauxit, alumin, công nghiệp chế biến nhôm; phát triển các trung tâm du lịch lớn, hình thành các tuyến du lịch chuyên đề gắn với bản sắc văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh liên kết vùng, nội vùng, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng. Phát triển vùng Tây Nguyên theo hướng liên kết chặt chẽ với vùng Duyên hải miền Trung và vùng Đông Nam Bộ; lấy việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, hạ tầng số làm động lực, tạo dư địa cho sự phát triển vùng. Đẩy nhanh kết nối với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, với các nước trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Công, nhất là trong khuôn khổ Hợp tác tiểu vùng Mê Công mở rộng, khu vực Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia và các nước ASEAN...
Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW mới đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng lưu ý, xây dựng nền văn hóa Tây Nguyên tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, tôn trọng các giá trị văn hóa khác biệt giữa các dân tộc, coi đây là động lực, nền tảng cho phát triển và hội nhập quốc tế. Ưu tiên giữ gìn, bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị di sản văn hóa, giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số, nhất là các lễ hội truyền thống, không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên. Đẩy mạnh việc xây dựng nông thôn mới. Giải quyết căn bản vấn đề đất ở, đất sản xuất và việc khiếu kiện, tranh chấp đất đai, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân...
Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về vùng Tây Nguyên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, phải quán triệt thật đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc ý nghĩa, mục đích, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết; nắm vững các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm. Tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành, của người dân và cộng đồng các doanh nghiệp về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng. Đổi mới tư duy phát triển, nhất là về liên kết vùng, tiểu vùng; về cơ chế, chính sách đặc thù; về phân bổ nguồn lực; về nguồn nhân lực, tiềm năng, lợi thế nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng, các tiểu vùng và từng tỉnh trong vùng, tiểu vùng; giải quyết các vấn đề trọng điểm quốc gia tại vùng; các vấn đề liên ngành, liên vùng, liên tiểu vùng. “Đồng thời, phải nhận thức và giải quyết thật đúng, thật tốt mối quan hệ giữa phát triển vùng và phát triển chung của cả nước - Cả nước vì Vùng và Vùng vì Cả nước; xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các ban, bộ, ngành Trung ương; của các địa phương trong vùng để xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan, đơn vị trong việc tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết theo đúng tinh thần "đúng vai, thuộc bài", Tổng Bí thư nói.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, cần khơi dậy, phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách mạng, lòng yêu nước; tinh thần chủ động, sáng tạo; ý thức tự lực, tự cường, ý chí vươn lên mạnh mẽ của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng; quyết tâm vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng bằng lòng, bị động, chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của Trung ương; quyết tâm không cam chịu đói nghèo, thua kém các tỉnh khác, vùng khác. Đồng thời, tăng cường sự hỗ trợ của Trung ương, sự hợp tác, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước để phát triển kinh tế vùng nhanh và bền vững hơn; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng đạt mức cao hơn bình quân chung của cả nước trên cơ sở từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng.
Trên cơ sở đổi mới về tư duy, nhận thức, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, cần đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển vùng. Các cơ quan ở Trung ương cần tăng cường phối hợp với Hội đồng vùng và các địa phương trong vùng, khẩn trương xây dựng, hoàn thiện, ban hành, triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên, có tính đặc thù cho phát triển vùng. Xây dựng, tổ chức thực hiện thật tốt Quy hoạch phát triển vùng giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo hướng xanh, bền vững và toàn diện; phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Ưu tiên bố trí nguồn vốn ngân sách nhà nước, kết hợp với huy động các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển các công trình trọng điểm có sức lan tỏa, giải quyết các vấn đề phát triển vùng và liên vùng; phát triển vùng toàn diện cả về kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên.
Bài: Nguyễn Hồng Điệp
Ảnh, đồ họa: TTXVN
Biên tập: Hoàng Linh
Trình bày: Nguyễn Hà
23/10/2022 12:59