Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Kể từ năm 1986 khi đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, 36 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Những năm gần đây, mặc dù kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Theo Tổng cục Thống kê, quý II/2022, kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt mức tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ 10 năm gần đây, đạt 7,72%; với tốc độ tăng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực dịch vụ lần lượt là 3,02%, 8,87% và 8,56%.
Những nỗ lực đổi mới trong 36 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD.
Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan cho rằng, qua 36 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn.
Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.
Việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm, đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây.
Trong bài viết mới đây của Ngân hàng Thế giới đã nhận định: Việt Nam là một câu chuyện thành công về phát triển, đạt được những tiến bộ chưa từng có về kinh tế - xã hội trong vòng chưa đầy nửa thế kỷ kể từ sau khi kết thúc chiến tranh. Kể từ khi quá trình Đổi mới được thực hiện từ năm 1986, cùng với các xu hướng toàn cầu, Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới đã trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình.
Từ năm 2002 đến năm 2021, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người tăng 3,6 lần, đạt gần 3.700 USD Mỹ. Tỷ lệ đói nghèo giảm mạnh xuống còn 5%, với trên 10 triệu người được thoát nghèo. Tăng trưởng trong thập kỷ qua ở Việt Nam nhìn chung có tính chất bao trùm, do những cải thiện về phúc lợi đạt được trên toàn bộ phân bố kinh tế hộ gia đình. Sự thoát nghèo diễn ra đồng đều ở hầu hết các nhóm và nhiều gia đình thoát nghèo chỉ trong vòng một thế hệ. Kết quả sức khỏe được cải thiện cùng với mức sống ngày càng nâng cao. Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 tuổi lên 75,4 tuổi trong giai đoạn 1990-2019, cao nhất trong khu vực đối với các quốc gia có mức thu nhập tương tự.
Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: Ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có COVID-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vaccine phòng bệnh, mới đây nhất là vaccine phòng COVID-19...
Theo Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
Hơn 2 năm qua, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm bảo đảm ổn định cuộc sống tối thiểu cho người dân, đặc biệt là người nghèo. Gói an sinh xã hội lần thứ nhất đã được triển khai có quy mô 62.000 tỷ đồng và gói an sinh xã hội lần thứ hai với tổng trị giá 26.000 tỷ đồng là nền tảng để bảo vệ các quyền con người, đồng thời cho thấy nỗ lực và quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam.
Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và toàn thể nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
Trong bối cảnh khó khăn do đại dịch COVID-19, Chính phủ đã nỗ lực trong công tác chỉ đạo, điều hành, cùng các bộ, ngành, địa phương thực hiện “mục tiêu kép”, vừa phòng chống dịch, vừa duy trì các hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo đảm đời sống nhân dân. Đến nay, tình hình dịch bệnh ở nước ta cơ bản được kiểm soát, các hoạt động kinh tế đang dần được phục hồi trong trạng thái bình thường mới trên tinh thần thích ứng linh hoạt, an toàn, ứng phó hiệu quả với dịch bệnh.
Nhờ có sự điều hành linh hoạt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương nên nền kinh tế đã phục hồi nhanh qua các cuộc khủng hoảng khác nhau. Điển hình trong đại dịch COVID-19, Việt Nam là một trong số ít quốc gia đạt mức tăng trưởng GDP vào năm 2020 - thời điểm dịch bệnh bùng phát mạnh mẽ.
Ngân hàng Thế giới nhận định, Việt Nam là quốc gia năng động đang trong quá trình chuyển đổi. Các chỉ số cho thấy Việt Nam đang đi đúng hướng, với nhiều chuyển biến tích cực về kinh tế, xã hội. Mới đây, theo bảng đánh giá Chỉ số chính phủ tốt Chandler (CGGI) do Viện Quản trị Chandler (Singapore) công bố, Việt Nam được xếp thứ 3 trong số các quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Đánh giá này được thực hiện dựa trên 7 trụ cột gồm: Năng lực lãnh đạo và tầm nhìn xa; luật pháp và chính sách mạnh mẽ; thể chế mạnh; quản lý tài chính; thị trường hấp dẫn; tầm ảnh hưởng và danh tiếng toàn cầu; hỗ trợ phát triển con người.
Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Yên cho rằng, trong khó khăn do đại dịch, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đất nước ta không hề bị tê liệt, chia rẽ mà lại càng nung nấu ý chí vượt qua khó khăn, thách thức để vươn lên; tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết dân tộc ngày càng được củng cố và tăng cường.
Chính phủ đã chỉ đạo điều hành quyết liệt trong công tác phòng, chống dịch với những cách làm sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả để kiểm soát dịch bệnh, thực hiện mục tiêu bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân lên trên hết, trước hết, gắn liền với đó là duy trì hiệu quả các hoạt động phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống nhân dân.
Cùng chung quan điểm này, ông Nguyễn Thành Nam, đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ cũng cho rằng, Chính phủ chuyển trạng thái chống dịch sang thích ứng linh hoạt, an toàn, kiểm soát linh hoạt hiệu quả dịch bệnh là cần thiết, phù hợp với bối cảnh tình hình thực tế, song phải hết sức tránh tâm lý chủ quan, lơ là, coi thường dịch bệnh. Cùng với các giải pháp phòng, chống dịch bệnh, nâng cao tỷ lệ bao phủ vaccine, quan tâm xây dựng kịch bản phục hồi, tái cơ cấu kinh tế ở các ngành, lĩnh vực trong trạng thái bình thường mới hiện nay.
Chính vì thế mà sản xuất công nghiệp từ đầu năm 2022 đến nay đã tăng trưởng khá do hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được duy trì và đang dần phục hồi. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước. Nhiều ngành công nghiệp trọng điểm tăng trưởng cao so cùng kỳ năm trước như: Sản xuất trang phục tăng 23,3%; sản xuất thiết bị điện tăng 22,2%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 17,5%…
Video: Sôi động hàng hóa thông thương qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo (Quảng Trị):
Một kết quả tích cực nữa là khách quốc tế đến nước ta 6 tháng đầu năm 2022 đạt 602.000 lượt người (gấp 6,8 lần so với cùng kỳ năm trước) và du lịch nội địa sôi động trở lại. Hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá cũng là động lực cho tăng trưởng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 371,2 tỷ USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 17,3%; nhập khẩu tăng 15,5%. Cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 710 triệu USD.
Đáng chú ý, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ước tính đạt 10,06 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức vốn thực hiện cao nhất của 6 tháng đầu năm trong vòng 5 năm qua.
Bên cạnh đó, điểm sáng của bức tranh kinh tế những tháng qua là số lượng doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng cao, tạo đà cho phát triển trong các quý tiếp theo. Từ đầu năm đến nay, cả nước có 76,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 13,6%. Nếu tính cả doanh nghiệp quay trở lại hoạt động thì số doanh nghiệp tham gia thị trường đạt 116.900 doanh nghiệp, tăng 25,4%.
Ông Nguyễn Hữu Đông, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sơn La cho rằng: "Sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội là rất linh hoạt và sáng tạo, sát hợp và phù hợp với tình hình dịch bệnh nhất là việc Chính phủ đã chuyển hướng chiến lược từ Zero COVID sang thích ứng linh hoạt, an toàn, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh”.
Thời gian qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật trong bảo đảm quyền con người. Những thành tựu đó không những là minh chứng sinh động về tính đúng đắn của những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam mà còn khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam là một thành viên tích cực, trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong bảo đảm quyền con người.
Tôn trọng và bảo vệ nhân quyền là một chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam và điều này được thể hiện rõ trong bản Tuyên ngôn độc lập và trong Hiến pháp. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định quyền con người là giá trị chung của nhân loại; bảo đảm và thúc đẩy quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững.
Theo Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, để bảo đảm cho mọi người Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ quyền con người, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Thời gian qua, Việt Nam tiếp tục thông qua và sửa đổi nhiều Bộ luật quan trọng như Luật Phòng, chống ma túy sửa đổi; xem xét thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh qua các năm luôn đảm bảo nguyên tắc ưu tiên đưa vào Chương trình các dự án luật nhằm triển khai thi hành các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Việt Nam không chỉ coi bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tiếp cận thông tin là những nghĩa vụ theo các Điều ước quốc tế về quyền con người mà thực chất xuất phát từ chính lợi ích mang lại cho phát triển đất nước. Việt Nam còn được ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng Internet cao trên thế giới. Các nền tảng số, mạng xã hội tạo nên những kênh, giao diện kết nối quan trọng để người dân tiếp cận thông tin, trao đổi và bày tỏ quan điểm của mình.
Ngày 30/8/2021, Chủ tịch nước đã ký Quyết định đặc xá tha tù trước thời hạn cho 3.035 người. Đây là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, vừa nghiêm minh trong xét xử người phạm tội, đồng thời khoan hồng, nhân đạo đối với những phạm nhân có quá trình cải tạo, lao động, học tập tốt, trở về với cộng đồng hướng thiện, rèn luyện tiến bộ để trở lại làm người có ích cho xã hội. Bên cạnh đó, việc xem xét đặc xá cho những trường hợp quốc tịch nước ngoài được thực hiện trên cơ sở công bằng, minh bạch cũng giúp cộng đồng quốc tế nhận thức rõ hơn về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, góp phần tăng cường quan hệ song phương với các nước có công dân được đặc xá.
Chính phủ thường xuyên lắng nghe các ý kiến phản biện xây dựng, xác đáng, điều chỉnh các chính sách, biện pháp phù hợp với tình hình thực tế đất nước, điển hình là trong công tác phòng chống dịch COVID-19, giải quyết các bất cập trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nỗ lực triển khai Chính phủ điện tử, gia tăng sử dụng mạng xã hội làm kênh cung cấp thông tin, tiếp xúc, giao tiếp với người dân.
Bên cạnh công tác bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong nước, công tác đối ngoại về quyền con người qua các khuôn khổ song phương cũng được triển khai hiệu quả. Việt Nam đã tổ chức thành công Đối thoại thường niên về quyền con người với Mỹ (tại Washington D.C) và Australia (theo hình thức trực tuyến), cung cấp thông tin về các nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, giải đáp các quan tâm, qua đó tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thu hẹp khác biệt, tìm kiếm cơ hội hợp tác và góp phần thúc đẩy quan hệ song phương với các đối tác.
Theo Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Bùi Thanh Sơn, Việt Nam duy trì trao đổi với các đối tác khác như EU, nhóm G4 (Canada, Thụy Sỹ, Na Uy, New Zealand) và tiến hành tham vấn nhằm tăng cường quan hệ và hợp tác với các nước bạn bè truyền thống như Nga, Trung Quốc. Qua các trao đổi, chúng ta tìm kiếm thêm cơ hội hợp tác, đồng thời chia sẻ, cung cấp thông tin về các vấn đề cùng quan tâm, qua đó tăng cường thêm quan hệ song phương. Tại các trao đổi song phương ở các cấp khác nhau, chúng ta cũng tích cực lồng ghép vận động các nước ủng hộ ứng cử của Việt Nam làm thành viên HĐNQ LHQ nhiệm kỳ 2023 - 2025. Việc nhiều nước khẳng định ủng hộ ứng cử của Việt Nam tiếp tục cho thấy uy tín và vị thế của đất nước tăng cao.
Ðảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân, xác định đây là nhu cầu tinh thần chính đáng của người dân. Chính sách đó, luôn được Ðảng, Nhà nước ta khẳng định và thực hiện nhất quán, được bảo đảm trên thực tiễn và cụ thể bằng văn bản pháp luật. Tại Sắc lệnh số 234/SL ngày 14/6/1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, xác định: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hòa luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện” (Ðiều 15) và “Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo” (Ðiều 13).
Trong mỗi giai đoạn lãnh đạo cách mạng, Ðảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo bảo đảm quyền tự do tôn giáo, tạo hành lang pháp lý để các tôn giáo hoạt động ổn định, tăng cường củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và các giáo hội tôn giáo…
Tiêu biểu là Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa IX) về công tác tôn giáo; Pháp lệnh 21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18/6/2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 22/2005/NÐ-CP ngày 1/3/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà đất liên quan đến tôn giáo... Tại Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật” (Khoản 1, Ðiều 24). Ngày 18/ 11/ 2016 Quốc hội đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo... Nhờ có chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được bảo đảm ngày càng tốt hơn, số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự ngày càng tăng.
Chỉ tính trong vòng 20 năm trở lại đây (2003-2022) việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cho kết quả hết sức ấn tượng: Năm 2003 cả nước có 15 tổ chức, sáu tôn giáo, 17 triệu tín đồ với khoảng 20.000 cơ sở thờ tự; 34.000 chức sắc, 78.000 chức việc. Ðến năm 2021 Việt Nam đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với hơn 26 triệu tín đồ, 54.000 chức sắc, tăng; 135.000 chức việc; 29.000 cơ sở thờ tự. Ðời sống tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng phong phú, đa dạng, nhiều lễ hội lớn trong các tôn giáo thu hút đông đảo tín đồ, người dân tham dự.
Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước tích cực, chủ động tham gia vào hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người do Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác ban hành. Tính đến năm 2021, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản. Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, Việt Nam cam kết thực hiện và coi đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý của Nhà nước.
Việt Nam đã tham gia tích cực tại các khóa họp thường niên và các phiên họp đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền (HĐNQ LHQ) về tình hình tại Myanmar, Palestine, Afghanistan, Sudan, Ethiopia, một mặt giới thiệu về các nỗ lực của Việt Nam trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, phản bác các thông tin sai lệch, sai sự thật, mặt khác tham gia tích cực vào các thảo luận của HĐNQ về các vấn đề toàn cầu, tình hình bảo vệ quyền con người tại các khu vực trên thế giới cần sự quan tâm đặc biệt, góp phần vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc đảm bảo các quyền con người cơ bản cho người dân tại tất cả các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong tháng 1 và tháng 4/2021 với nhiều dấu ấn, đóng góp. Những thành tựu đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; thể hiện uy tín, vị thế quốc tế ngày càng tăng của Việt Nam. Trong nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an (HĐBA) LHQ 2020 - 2021, khi làm Chủ tịch HĐBA tháng 4/2021, Việt Nam đã thúc đẩy 3 sáng kiến về Vai trò của các tổ chức khu vực trong thúc đẩy xây dựng lòng tin và đối thoại trong ngăn ngừa xung đột; Khắc phục hậu quả bom mìn và duy trì hòa bình bền vững; Bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu đối với sự sống của người dân, thúc đẩy thông qua 1 nghị quyết về vấn đề bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu và 2 Tuyên bố Chủ tịch về 2 vấn đề còn lại. Các sáng kiến này đề cao cách tiếp cận vì con người, lấy con người làm trung tâm trong tham gia giải quyết các vấn đề hòa bình, an ninh quốc tế tại HĐBA, hướng tới mục tiêu quan trọng nhất là mang đến hòa bình bền vững, giải quyết xung đột, đem lại cuộc sống an toàn, ổn định bền vững cho người dân ở các quốc gia, khu vực chịu ảnh hưởng.
Bài: Thái Bình
Ảnh, đồ họa: TTXVN
Video: V.T
Trình bày: Chí Bình
02/09/2022 12:01