Chữ viết, tiếng nói là của cải vô cùng quan trọng và quý giá của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, là niềm tự hào của mỗi dân tộc. Tiếng Việt của dân tộc Việt Nam cũng như vậy. Trước bao thăng trầm và đổi thay của đất nước và đời sống xã hội, tiếng Việt luôn khẳng định được sức sống mãnh liệt của mình, khẳng định được sự giàu đẹp vốn có của nó. Tiếng Việt vẫn thắp trên môi chúng ta mỗi ngày, là thước đo tâm hồn người Việt, là dòng chảy bất tận trong những tác phẩm văn chương, trong lời ca tiếng hát và lời ăn tiếng nói hằng ngày.
Chữ viết, tiếng nói là của cải vô cùng quan trọng và quý giá của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, là niềm tự hào của mỗi dân tộc. Tiếng Việt của dân tộc Việt Nam cũng như vậy. Ngay từ thời Thơ Mới (1932 - 1945), trong hoàn cảnh nước nhà chưa độc lập, tác phẩm của hầu hết các thi nhân đương thời đều giăng mắc một nỗi buồn bàng bạc. Hoài Thanh đã tâm sự: “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng” (Một thời đại trong thi ca). Còn Huy Cận đã bày tỏ tình yêu tiếng Việt bằng những câu lục bát mặn nồng: “Nằm trong tiếng nói yêu thương/ Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời/ Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi/ Hồn thiêng đất nước cùng ngồi bên con/ Tháng ngày con mẹ lớn khôn/ Yêu thơ, thơ kể lại hồn ông cha/ Đời bao tâm sự thiết tha/ Nói trong tiếng nói lòng ta thuở giờ” (Nằm trong tiếng nói).
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tình yêu tiếng Việt vẫn hiện lên nồng nàn trên những trang văn của Nguyễn Tuân. Trong tùy bút “Về tiếng ta” viết năm 1966, nhà văn đưa nhiều ví dụ để chứng minh về sự giàu đẹp, phong phú và tinh tế của tiếng Việt như những diễn đạt về sự chết, về di truyền nòi giống, về sức gợi cảm của một câu thơ trong “Chinh phụ ngâm” hay “Truyện Kiều”... Nguyễn Tuân cảm thấy mình “chịu ơn rất nhiều đối với quê hương ông bà đã truyền cho tôi thứ tiếng nói đậm đà tôi hằng nói từ những ngày mới ra đời. Mà rồi cho đến cái phút cuối cùng không được chứng sống nữa, thì cái câu cuối đời của tôi cũng vẫn lại cứ nói lên vẫn chỉ bằng cái thứ tiếng nói ruột thịt tủy xương đó mà thôi”. Đối với Nguyễn Tuân, sự cầu kỳ, chăm chút, công phu, cẩn thận khi chọn từ, chọn chữ để diễn đạt ý tình luôn được thực hiện vô cùng kỹ lưỡng: “Có những tiếng những chữ mỗi lần vác từ trong kho dân tộc ra mà dùng, cần phải gieo nó xuống, cần phải gõ nó lên mà đo lại cả những vòng ngân vang hưởng của nó”.
Sau năm 1975, tình yêu tiếng Việt tiếp tục tuôn chảy trong nhiều thi phẩm của nền thơ Việt Nam hiện đại, trong đó phải kể đến bài thơ “Tiếng Việt” của Lưu Quang Vũ, được sáng tác những năm đầu của thập niên 80. Bài thơ dài tới 60 câu, mang dáng dấp của một trường ca về tiếng Việt, mang trong đó những hơi thở hào hùng như một pho sử thi về tiếng nói của cha ông. Tất cả những thanh âm của quê hương, của bao lớp người lần lượt hiện lên qua những dòng thơ. Từ tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm đến tiếng kéo gỗ nhọc nhằn, từ tiếng gọi đò trên sông vắng đến tiếng lụa xé đau lòng, từ tiếng nước lũ dập dồn đến lời cha dặn... Vẻ đẹp của tiếng Việt giàu thanh điệu cho ta những biểu cảm độc đáo về mặt thanh âm mà những ngôn ngữ Tây phương không bao giờ có được: “Dấu huyền trầm dấu ngã chênh vênh/ Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy”.
Sâu sắc hơn, Lưu Quang Vũ đã qua tiếng Việt mà đánh thức sự quay về nguồn cội, đánh thức sự hàn gắn của những con người còn ở bên kia chiến tuyến. Có phải càng xa quê hương thì cái tình với tiếng Việt càng cháy bỏng, cồn cào hơn lúc nào hết. Và vượt lên mọi cách ngăn về địa lý, về chính trị, thi sĩ tin rằng muôn người Việt có thể trở về đoàn tụ bên nhau trong tình yêu thứ tiếng nghìn đời. Tám câu thơ khép lại tác phẩm đã chạm vào nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn của mỗi chúng ta: “Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển/ Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya?/ Ai ở phía bên kia cầm súng khác/ Cùng tôi trong tiếng Việt quay về/ Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ/ Quên nỗi mình mặc cơm ăn/ Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá/ Tiếng Việt ơi tiếng Việt xót xa tình”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp” (Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 8/9/1962).
Trước Cách mạng Tháng Tám, trong "Đề cương về văn hóa Việt Nam" (1943), Đảng ta nêu nhiệm vụ "tranh đấu về tiếng nói" thành một nhiệm vụ cần thiết, chủ trương "thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói của dân tộc".
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở vào giai đoạn cam go nhất, đồng chí Trường Chinh kêu gọi "hãy gây một phong trào Việt hóa lời và văn của chúng ta", "kiên quyết bảo vệ tiếng mẹ đẻ".
Từ đầu năm 1966, sau bài phát biểu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng về "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt", vấn đề này càng được chú ý hơn, và đặc biệt không chỉ trong giới ngôn ngữ học. Cách mạng Tháng Tám mở ra một giai đoạn phát triển mới của tiếng Việt. Đó là giai đoạn tiếng Việt được nâng lên địa vị ngôn ngữ chính thức của Nhà nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, phạm vi sử dụng của tiếng Việt được mở rộng một cách không hạn chế.
Ngày nay, quan sát về sự vận dụng tiếng Việt trong đời sống hằng ngày, từ sinh hoạt đời thường cho đến những bài viết đăng báo, cho đến những tác phẩm văn học nghệ thuật, chúng ta không khỏi chạnh lòng về việc sử dụng tiếng Việt trong nhiều trường hợp còn cẩu thả, tùy tiện. Những tít báo vi phạm lỗi ngữ pháp, tạo ra sự mơ hồ trong cách hiểu có thể bắt gặp trên các trang báo mạng. Hay trong các ca khúc Việt những năm gần đây, người nghe nhiều khi không khỏi nhăn mặt, khó lọt tai vì những lời ca được viết quá dễ dãi, ngây ngô, tùy tiện, cùng một thứ ngữ pháp lủng củng, chẳng hạn: “Qua bao ngày gian truân ngày xưa kia, giờ đây mới được em yêu kề bên anh, mà ngu sao làm chi để vụt bay, mất tình sẽ đau..." (Tình yêu trong âu lo); “Vô tư đi cứ bám vào anh này, suy tư anh u não cả tháng ngày, không may cho em yêu tìm đến phải đúng thằng điên rồ trên khinh khí cầu” (Không phải dạng vừa đâu)…
Và giờ đây, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những cách viết tiếng Việt chen tiếng Anh như thế này: Thứ high, thứ bar (thứ hai, thứ ba); xỉu up, xỉu down (xỉu lên, xỉu xuống)… Tiếng Việt đang bị biến dạng do những sáng tạo hoặc chuyển nghĩa từ mới, thuật ngữ mới không chính xác, thiếu trong sáng của các cơ quan chức năng. Người ta thích dùng “start-up” trong khi tiếng Việt đã có từ “khởi nghiệp”, thích dùng “kit test” trong khi tiếng Việt đã có “bộ xét nghiệm”, thích dùng “smartphone” trong khi tiếng Việt đã có “điện thoại thông minh”…
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ông cha ta đã bảo vệ và phát triển tiếng Việt như một gia tài lớn. Tiếng Việt đã trở thành hồn cốt của dân tộc. Tiếng Việt là sức sống, là tâm hồn, lối sống, tư duy người Việt. Nhưng hiện nay, nhân danh sự tiện lợi, nhân danh tốc độ của thời tự động hóa, nhân danh hội nhập, người ta đang làm lai tạp, biến dạng tiếng Việt.
Những lệch chuẩn về tiếng Việt nêu trên cần có sự quan tâm sâu sát hơn nữa của các cơ quan chức năng, kiểm duyệt, những nhà quản lý văn hóa, những đơn vị chịu trách nhiệm xuất bản, những cơ quan báo chí - truyền thông để cùng nhau góp phần trả lại vẻ đẹp trong sáng, tinh tế cho tiếng Việt.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng là những tấm gương mẫu mực trong sự nghiệp bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Trong bài viết về "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" (Tạp chí Văn học số 3 - 1966), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh: "Tiếng ta phải phát triển. Tất cả vấn đề là làm sao bảo đảm cho sự phát triển này diễn ra một cách vững chắc trên cơ sở vốn cũ của tiếng ta, làm cho tiếng ta ngày thêm giàu, nhưng vẫn giữ được phong cách, bản sắc, tinh hoa của nó". Do vậy, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt vẫn luôn là vấn đề mang tính thời sự.
Tiếng Việt trong Top 10 ngôn ngữ phổ biến nhất trên Internet:
Đối với cộng đồng trên 5,3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài đang sinh sống, làm việc trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, tiếng Việt là phương tiện lưu giữ, lan tỏa, trao truyền văn hóa, giúp đồng bào ta ở nước ngoài bảo tồn được bản sắc văn hóa riêng. Tiếng Việt cũng là cầu nối đồng bào Việt Nam trên toàn thế giới với Tổ quốc. Dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt cho thế hệ trẻ, đã trở thành phong trào phát triển rộng khắp trên thế giới, điển hình như Hoa Kỳ (khoảng 200 trung tâm, cơ sở dạy tiếng Việt), Thái Lan (tổ chức 39 lớp học), Campuchia (thành lập 33 điểm trường, lớp), Lào (với 13 trường, trung tâm dạy tiếng Việt)…
Bà Trần Thị Bạch Lan, Phó Chủ tịch Hội người Việt Nam tỉnh Savanakhet (Lào) cho biết, việc gìn giữ, bảo tồn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc là nhiệm vụ bức thiết, trong đó tăng cường ngôn ngữ Việt là chất keo gắn kết cộng đồng kiều bào với quê hương, đất nước. “Chúng tôi luôn mong muốn trao truyền cho các thế hệ sau tình đoàn kết, nét đẹp văn hóa truyền thống, ngôn ngữ của dân tộc ta, niềm tự hào là người Việt Nam, là con cháu của Bác Hồ kính yêu”, bà Bạch Lan tâm sự.
Trên cơ sở xác định việc dạy và học, bảo tồn tiếng Việt là nguyện vọng chính đáng, nhu cầu thiết yếu của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 930/QĐ-TTg ngày 3/8/2022 phê duyệt Đề án “Ngày Tôn vinh tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2023 - 2030”, góp phần cụ thể hóa chủ trương “Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc” (Văn kiện Đại hội XIII của Đảng), đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu của bà con.
Theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Hiệu, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài: “Tiếng Việt là tài sản quý báu của dân tộc Việt Nam; đóng vai trò vừa là cầu nối, vừa là phương tiện lan tỏa các giá trị văn hóa; là công cụ quan trọng hàng đầu giúp giữ gìn, tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc, đóng góp vào việc củng cố nền độc lập của Tổ quốc, đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Công tác bảo tồn, phát huy tiếng Việt trong cộng đồng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng”.
Với việc thực hiện đề án này, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao mong muốn, Ngày Tôn vinh tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sẽ trở thành dấu mốc quan trọng hằng năm trong đời sống văn hóa, tinh thần của cộng đồng, với những hoạt động thiết thực nhằm tôn vinh sự giàu đẹp của tiếng Việt, nâng cao nhận thức về ngôn ngữ và văn hóa dân tộc đối với kiều bào trên toàn thế giới, đặc biệt là các thế hệ trẻ và bạn bè quốc tế; lan tỏa mạnh mẽ tình yêu tiếng Việt, trở thành động lực thúc đẩy phong trào dạy và học tiếng Việt trong cộng đồng. Qua đó, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc; đặt nền tảng cho giai đoạn mới về phát triển vị thế tiếng Việt trên nhiều lĩnh vực giáo dục cộng đồng. Thông qua việc tôn vinh ngôn ngữ dân tộc, góp phần xây dựng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ổn định, đoàn kết, vững mạnh, luôn hướng về và tích cực đóng góp cho quê hương Việt Nam. Đồng thời, việc tôn vinh tiếng Việt tại các địa bàn sẽ góp phần truyền thông về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, cũng như văn hóa Việt Nam tới bạn bè quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh “mềm” của đất nước.
Bài: Phương Anh - Diệp Trương
Ảnh, đồ họa: TTXVN - TTXVN phát
Biên tập: Kỳ Thư
Trình bày: Nguyễn Hà
04/03/2023 05:55