Trong ký ức của mình, ông Chu Ngọc Tần (phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội) không thể quên những ngày tháng thời còn “bao cấp”. Như nhiều gia đình khác, các thành viên trong gia đình ông phải dậy từ 3 giờ sáng để xếp hàng mua gạo rồi lại về máy nước công cộng xếp hàng lấy từng xô nước. Trẻ em, người lớn đều được huy động vào “công cuộc xếp hàng” để có được dầu hoả, nước mắm, mấy miếng thịt… cho những bữa cơm. Rồi cơm độn khoai, độn mì…, mà mức độ “độn” phải là một hạt cơm “cõng” cả miếng khoai to tướng. Vải vóc, thực phẩm…, cái gì cũng thiếu. Tem phiếu, sổ gạo ám ảnh cả giấc ngủ của mỗi gia đình.

Đại tá Hà Huy Thông, nguyên Phó Cục trưởng Cục Huấn luyện đào tạo (Bộ Quốc phòng) nay là Bí thư chi bộ 29, khu A7 – Bắc Nghĩa Tân, Hà Nội) cũng từng trải qua những năm tháng bao cấp khó khăn. Đại tá Hà Huy Thông kể lại trong clip sau và nhấn mạnh: Chính thời bao cấp là điểm tựa để chúng ta đi lên, có đời sống sung túc hiện nay:

Những kỷ niệm thời nước ta còn theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung tưởng đã rất xa nhưng vẫn vẹn nguyên trong ký ức của nhiều người. Đây là giai đoạn sau hai cuộc kháng chiến với nhiều vết thương chiến tranh, đất nước ta bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đối diện với những thách thức, khó khăn gay gắt. Cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp và mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu Xô-viết được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Đến năm 1985, mặc dù có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế, nhất là tập trung cho công nghiệp hoá, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, nhưng nền kinh tế nói chung và sản xuất công nghiệp vẫn tăng chậm, hơn nữa, có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng khoảng. Trong khi đó, nguồn viện trợ của bên ngoài, các nguồn vốn và hàng hoá vật tư, nguyên liệu và hàng hoá tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm bao vây cấm vận của Mỹ ngăn cản Việt Nam bình thường hoá quan hệ với thế giới.

Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương trong một bài viết đã phân tích rõ tình hình đất nước giai đoạn này. Ông đánh giá: “Sau nhiều năm vận động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tuy đất nước có đạt được những thành tựu to lớn, song nhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại. Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Trên thực tế, đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội…”

Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương.

Nhận rõ nhu cầu bức thiết ấy, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng12/ 1986) đã chính thức khởi xướng sự nghiệp đổi mới toàn diện và triệt để.

Chương trình phát triển đất nước được thông qua tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI có nội dung đặc biệt quan trọng là chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường - mở cửa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được bước chuyển ấy, khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới tư duy phát triển. Chính điều đó xác định giá trị lịch sử của Đại hội VI: Đại hội của Đổi mới tư duy.

Ông Hà Đăng năm nay 91 tuổi đời, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng. Ông nguyên là Ủy viên Trung ương Đảng khóa VI và VII, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 8 và 9, nguyên Tổng biên tập báo Nhân dân và Tạp chí Cộng sản, nguyên Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương. Ông Hà Đăng phân tích những điểm nổi bật trong nội dung đổi mới tại Đại hội VI trong clip sau:

Trước hết, với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật ", Đại hội VI đã kiểm điểm và đánh giá theo tinh thần phê phán những sai lầm chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động nóng vội, chủ quan, không tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
 

Đại hội đã rút ra 4 bài học lớn, trong đó 2 bài học đầu tiên là "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc ", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động" và "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan".

Thứ hai, nội dung cốt lõi của tư duy đổi mới là bước chuyển từ quan niệm kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, phải được xây dựng ngay trong thời kỳ quá độ sang khẳng định phải phát triển trong thời kỳ quá độ một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương phân tích: Phương thức phát triển có những đổi mới căn bản.  Đó là: Bước chuyển từ nền kinh tế lấy thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) với sở hữu công cộng (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) giữ vị trí thống trị sang quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần (gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) với nhiều hình thức sở hữu đa dạng, hỗn hợp, đan xen lẫn nhau. Bước chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó từ chỗ tuyệt đối hoá vai trò của kế hoạch, kỳ thị trường sang chỗ thừa nhận thị trường, khẳng định phải kết hợp kế hoạch với thị trường, trong đó kế hoạch định hướng thị trường, còn thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch, có vai trò điều tiết cung cầu, giá cả, điều tiết sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế.

Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương.

Thứ ba, sự đổi mới tư duy phát triển còn thể hiện ở bài học thứ ba mà Đại hội VI đã rút ra: Đó là "phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới". Thực chất của sự đổi mới này là thay thế quan niệm phát triển "khép kín" trong thế đối đầu bằng quan niệm phát triển dựa vào mở cửa, mở rộng hợp tác quốc tế theo phương châm kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và cạnh tranh phát triển dựa trên cơ sở phát huy nội lực. Cách tiếp cận phát triển mới này bắt nguồn từ đòi hỏi bức bách phải thoát khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực và cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa có những thay đổi lớn.

Thứ tư, Đảng cộng sản Việt Nam xác định phải ngày càng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thành cơ chế chung trong quản lý toàn xã hội.

Thứ năm, sự đổi mới tư duy phát triển còn thể hiện ở khẳng định phải "phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước là yếu tố cơ bản (của sự phát triển nhanh và bền vững).

Đường lối đổi mới của Đảng chính là sự khởi xướng đưa đến những thành công trong xây dựng và phát triển đất nước. Trong clip sau, PGS.TS Lê Văn Toan (nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin khoa học – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) phân tích:

Hiện đang sinh sống tại Hà Nội, Đại tá Bùi Minh Thắng, nguyên giảng viên Học viện Chính trị quân sự, hiện nay là Bí thư Chi bộ 7, phường Nghĩa Tân, Hà Nội) nhìn nhận: Từ khi Đảng ta có sự khởi xướng đổi mới về mặt kinh tế và đẩy mạnh quan hệ chính trị, ngoại giao trên trường quốc tế, chúng tôi thấy đây là một đường lối cực kỳ đúng đắn của Đảng.

Clip Đại tá Bùi Minh Thắng chia sẻ:

Từ sau Đại hội VI của Đảng, các kỳ đại hội sau, đường lối đổi mới đất nước tiếp tục được duy trì, đồng bộ và hoàn thiện. Đảng, Nhà nước tiếp tục có những quyết sách rất quan trọng để vượt qua khó khăn, thách thức mới nảy sinh, đưa đất nước phát triển. Những năm đầu đổi mới đã có những bước chuyển biến rất quan trọng. Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội khóa VIII thông qua tháng 12/1987, có hiệu lực từ ngày 1/1/1988. Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị (khóa VI) ban hành Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, giao ruộng đất cho các hộ nông dân sử dụng lâu dài, tạo bước phát triển lớn chưa từng có trong nông nghiệp. Kết quả là từ một nước thiếu lương thực phải nhập khẩu, Việt Nam đã vươn lên tự chủ về lương thực, luôn là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Chính sách và cơ chế quản lý mới đã làm cho kinh tế khởi sắc, lạm phát được kiềm chế, giảm từ 774,7% năm 1986 xuống còn 60% năm 1990.

Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, công cuộc đổi mới được triển khai tích cực, Đại hội VII của Đảng (6/1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đại hội xác định đường lối đối ngoại: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) chủ trương thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện tốt các chính sách xã hội, nhất là xóa đói giảm nghèo, chính sách với người có công.

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) đánh giá thành công của 10 năm đổi mới, khẳng định đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và hoàn thành những mục tiêu đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội cũng ghi nhận Việt Nam đã ra khỏi tình trạng bị bao vây, cô lập, cấm vận với những thành công trong đối ngoại: thiết lập quan hệ với Cộng đồng châu Âu (1990), bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), với Mỹ (1995) và gia nhập ASEAN (1995). Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1991-1995 đạt mức cao (8,2%/năm).  

Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.  

Clip nhà báo lão thành Trần Đình Thảo, nguyên Phó trưởng Ban biên tập Tin trong nước (TTXVN) chia sẻ về những thành tựu của đổi mới:

Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) tổng kết 20 năm đổi mới, làm rõ hơn những vấn đề lý luận, thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động lớn đến Việt Nam khi đất nước đang hội nhập sâu rộng. Thành tựu đã đạt được là “nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”.

Sau 20 năm đổi  mới, nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm sau tăng cao hơn năm trước; việc huy động các nguồn nội lực cho phát triển có chuyển biến tích cực, tỉ lệ huy động GDP vào ngân sách nhà nước vượt dự kiến. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các thành phần kinh tế đều phát triển. Đặc biệt, hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới rất quan trọng. Một số sản phẩm đã có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện, giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Công tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, biện pháp; đến cuối năm 2005, tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn Việt Nam cho giai đoạn 2001 - 2005) còn 7% (năm 2001 là 17,5%, kế hoạch là 10%).

Đạt được những thành tựu trên là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng; sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, điều hành năng động của Chính phủ và nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đó còn là do tác động tích cực của những cơ chế, chính sách đã ban hành; do kết quả đầu tư trong nhiều năm qua đã làm cho năng lực sản xuất của nhiều ngành và toàn bộ nền kinh tế.

Đại hội XI của Đảng (tháng 1/2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), tiếp tục làm rõ và khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với những quan điểm và phương hướng cơ bản. Đại hội cũng đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011-2020) với những mục tiêu dựa trên cơ sở đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ.

Nhìn lại chặng đường dài đã qua của quá trình đổi mới, Đại tá Hà Huy Thông xúc động: “Chúng tôi rất thấm thía rằng, nhờ đường lối đối nội của Đảng, đổi mới, mà đất nước qua hơn 30 năm, đời sống mới đi lên được như ngày hôm nay”.

Clip Đại tá Hà Huy Thông chia sẻ:

Những ngày đầu xuân 2020, trong căn nhà mới xây rộng rãi, khang trang, cụ Chu Ngọc Tần không giấu được niềm xúc động. Cụ Tần  nói: “Trải qua những giai đoạn kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, chúng tôi càng cảm nhận được giá trị của những thành tựu ngày hôm nay mà đất nước ta có được. Hiện nay đời sống của người dân như chúng tôi đã được cải thiện rất nhiều. Hàng hoá tiêu dùng phong phú, đầy đủ, các vấn đề về an sinh xã hội như học hành, y tế đều được đảm bảo phục vụ nhân dân. Kinh tế đất nước khởi sắc, mọi người và mọi thành phần kinh tế được phát huy các năng lực, tiềm năng của bản thân. Có được điều này là nhờ Đảng ta đã có quyết sách đúng đắn, đường lối chiến lược bài bản, linh hoạt, khởi xướng và dẫn dắt toàn dân tộc và đất nước thực hiện thành công công cuộc đổi mới, mang lại ấm no cho đời sống nhân dân, nâng tầm vị thế của đất nước trên trường quốc tế”.

Kể từ Đại hội VI với đường lối đổi mới đến nay đã là hơn 30 năm. Sau hơn 30 năm đổi mới, hiện nay, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao; diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố. Ðã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với tất cả các nước lớn, quan trọng trên thế giới. Chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước.

Trong các năm qua, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đạt 425 tỉ đô la Mỹ, cao nhất từ trước đến nay. Sản xuất, kinh doanh tiếp tục phục hồi và phát triển toàn diện trên cả 3 lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục có nhiều tiến bộ. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội được quan tâm chăm lo, bảo đảm tốt hơn. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, kiện toàn hệ thống chính trị, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực được Ðảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo làm quyết liệt từ nhiều năm nay, thời gian gần đây càng được đẩy mạnh và bước đầu đạt được nhiều kết quả cụ thể, tích cực, được nhân dân đồng tình, ủng hộ; lòng tin của nhân dân với Ðảng và Nhà nước được nâng cao... Những thành tựu đó khẳng định đường lối đổi mới của Ðảng là đúng đắn, sáng tạo; tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.

Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2019 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày tại tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIV (tháng 10/2019, hiện nay, các tổ chức quốc tế uy tín và nhiều quốc gia, đối tác đánh giá cao và khẳng định Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng trong khu vực, toàn cầu. Nước ta được xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm 2018. Diễn đàn Kinh tế Thế giới đánh giá năng lực cạnh canh của Việt Nam cải thiện vượt bậc trên cả 3 trụ cột thể chế, cơ sở hạ tầng và kỹ năng, xếp thứ 67/141 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 10 bậc so với năm 2018.  

                                        Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.

Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng của kinh tế nước ta đạt khá cao, năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng tiếp tục được cải thiện; kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn. Tốc độ tăng GDP cả năm ước đạt trên 6,8%, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao hàng đầu khu vực, thế giới. Trong điều kiện thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế biến động mạnh, chúng ta vẫn duy trì được nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc. Trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm, xuất khẩu vẫn tăng khoảng 7,9%; xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước tăng mạnh; xuất siêu năm thứ tư liên tiếp.

Cơ cấu lại nền kinh tế thực chất hơn; các ngành, lĩnh vực chủ yếu vẫn phát triển ổn định, tích cực trong bối cảnh khó khăn. Sản xuất công nghiệp tăng mạnh; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò động lực tăng trưởng kinh tế. Bảo đảm an ninh năng lượng; phát triển mạnh các dự án năng lượng tái tạo. Khu vực nông nghiệp phát triển ổn định; xây dựng và đưa vào hoạt động nhiều nhà máy chế biến lớn; xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt trên 41 tỷ USD. Xây dựng nông thôn mới đạt kết quả vượt bậc, đến cuối năm có khoảng 53 - 54% số xã và 110 huyện đạt chuẩn, hoàn thành trước thời hạn gần 2 năm. Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, ước cả năm có khoảng 134.000 doanh nghiệp thành lập mới và hàng chục nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại. Đến nay có gần 24.000 hợp tác xã kiểu mới với đa số hoạt động hiệu quả.

Khoa học công nghệ được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực; hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển mạnh.  Các quỹ phát triển khoa học công nghệ phát huy hiệu quả; có hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp và một số quỹ đầu tư mạo hiểm. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam tăng 3 bậc, xếp thứ 42/129 quốc gia, vùng lãnh thổ; đứng thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và thứ 3 trong ASEAN.

Các ngành, các cấp đã tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển kết cấu hạ tầng, đô thị và thúc đẩy liên kết vùng. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được chú trọng, cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, chất lượng cuộc sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện rõ rệt. Các chính sách người có công, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững được các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo thực hiện và đạt nhiều kết quả. Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch tích cực; tạo thêm 1,62 triệu việc làm; mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm 1 - 1,5% (còn khoảng 3,73 - 4,23%); trong đó các huyện nghèo giảm trên 4%. Thành tích giảm nghèo của Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Chất lượng dịch vụ y tế tiếp tục được nâng lên, đạt 8,6 bác sỹ, 27,5 giường bệnh trên 1 vạn dân và tỷ lệ tham gia BHYT đạt 89,3%, vượt mục tiêu đề ra. Làm tốt công tác y tế dự phòng; chú trọng vệ sinh an toàn thực phẩm. Chất lượng giáo dục đào tạo và dạy nghề được nâng lên; xếp hạng đại học tăng 12 bậc, từ hạng 80 lên 68. Quan tâm thực hiện công tác giáo dục, đào tạo cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.

Quốc phòng, an ninh được tăng cường; trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đặc biệt, các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta được đẩy mạnh. Đất nước ta kiên trì, kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; tiếp tục củng cố quan hệ với các nước, đối tác. Vị thế và uy tín của Việt Nam tiếp tục được khẳng định và giành được sự ủng hộ, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế.

 Chúng ta đã thực hiện hiệu quả Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việt Nam đã chính thức ký với Liên minh châu Âu Hiệp định Thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA), kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Việc triển khai và tham gia các FTA quan trọng này đã tạo ra những động lực mới cho phát triển, đổi mới thể chế kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. IMF đánh giá Việt Nam nằm trong Top 20 nền kinh tế đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019.

Bên cạnh trụ cột hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập trong lĩnh vực chính trị-ngoại giao, quốc phòng-an ninh, văn hóa-xã hội đều được thúc đẩy mạnh mẽ. Việt Nam đã lần đầu tiên tham gia diễn tập hàng hải chung trong khuôn khổ ASEAN với Mỹ; ký Hiệp định khung về tham gia các hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (FPA); gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động quốc tế. Chúng ta đã cử bệnh viện dã chiến cấp II thứ hai tham gia Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc tại Nam Sudan sau khi bệnh viện dã chiến thứ nhất hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam lên đường thực hiện nhiệm vụ tại Phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc Nam Sudan. Ảnh: Mạnh Linh - Đan Phương

Vị thế đất nước được nâng lên, Việt Nam còn là điểm đến thân thiện, nơi chắp nối và hòa giải các xung đột, vì hòa bình nhân loại. Nước ta đã tổ chức thành công hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Triều Tiên lần thứ 2 tại Hà Nội, góp phần thúc đẩy đối thoại, hòa giải, hòa bình trên bán đảo Triều Tiên, được các đối tác và cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao. Việt Nam đã thực hiện tốt vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA 41. Ta đã được bầu làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu cao kỷ lục trong lịch sử bầu cử Hội đồng Bảo an tại Liên Hợp Quốc (192/193 phiếu). Những đóng góp quan trọng của Việt Nam tại các diễn đàn ASEAN, ASEM, Liên Hợp Quốc với tư cách thành viên cũng như tại G20 với tư cách khách mời đã được bạn bè, đối tác hưởng ứng tích cực.

Quốc kỳ Việt Nam, Mỹ và Triều Tiên trên khắp các tuyến phố Hà Nội. Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN

Trong bối cảnh tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, nghiêm trọng nhất trong 5 năm qua, chúng ta đã đánh giá đúng tình hình, đấu tranh kịp thời, xử lý tỉnh táo, sáng suốt, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển. Đồng thời, Việt Nam cũng chủ động, tích cực cùng các thành viên ASEAN và các đối tác liên quan thúc đẩy, quyết tâm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu quả, thực chất và phù hợp với luật pháp quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trên Biển Đông cũng như ở khu vực và trên thế giới.

Mùa xuân 2020, tại xã Kim Bình,  huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, nơi diễn ra Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tháng 2/1951 – Đại hội đầu tiên được tổ chức ở trong nước - bà con đồng bào các dân tộc thiểu số cùng chung niềm hân hoan khi thu nhập bình quân đầu người của xã đạt mức trên 30 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn hơn 5,6%. Người dân trang hoàng, sửa sang nhà cửa; đường làng được quét dọn sạch sẽ. Những mái nhà sàn với cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió. Khói bếp tỏa bay hòa vào không khí của đất trời làm khung cảnh làng bản trở nên ấm cúng hơn. Trên những triền đồi, hoa đào, hoa mai đua nhau khoe sắc làm bức tranh mùa Xuân càng trở nên tươi đẹp.

Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Kim Bình là một trong những xã đầu tiên của tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới (năm 2015), tới nay vẫn duy trì được 19/19 tiêu chí về xã nông thôn mới và hướng tới nâng cao các tiêu chí thành nông thôn kiểu mẫu.. Cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư xây dựng, bệnh viện, trường lớp học được xây dựng khang trang; đường liên thôn, liên xã được bê tông hóa, nhựa hóa sạch đẹp; nông nghiệp đã được cơ giới hóa và đẩy mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa. Đời sống của người dân Kim Bình đã được nâng lên về mọi mặt.

Một góc làng văn hóa thôn Bó Củng, xã Kim Bình. Ảnh: Quang Đán/TTXVN

 Ông Ma Quang Bắc, Bí thư Đảng ủy xã Kim Bình chia sẻ: Là một xã miền núi với trên 70% dân cư là đồng bào dân tộc thiểu số, phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, với quyết tâm, nỗ lực phát huy các tiềm năng, lợi thế của địa phương, xã chú trọng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xây dựng và nhân rộng các mô hình phát triển kinh tế, đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ, đời sống của người dân xã Kim Bình ngày càng được cải thiện.  “Với những giải pháp phát triển kinh tế - xã hội phù hợp đặc thù địa phương, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, chính quyền và người dân xã Kim Bình luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, mang lại ấm no hạnh phúc cho bà con. Bà con các dân tộc thiểu số tại Kim Bình cùng nhân dân cả nước sẽ luôn chung sức, chung lòng xây dựng và phát triển quê hương”- ông Ma Quang Bắc khẳng định.

Từ thực tiễn hơn 30 năm đổi mới, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra các bài học quan trọng và đề ra những mục tiêu cho thời gian tới. Trong dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2020 của đất nước, các mục tiêu đã được xác định:

Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô; kiểm soát lạm phát; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy mạnh đổi mới, hoàn thiện thể chế, khơi thông nguồn lực; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi. Thúc đẩy mạnh mẽ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, công trình trọng điểm; phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường với củng cố quốc phòng, an ninh. Chú trọng các lĩnh vực văn hóa, xã hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu. Tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy; tinh giản biên chế; cải cách hành chính, cải cách tư pháp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, phòng chống tham nhũng, lãng phí. Làm tốt công tác thông tin truyền thông, tạo đồng thuận xã hội. Củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, thực hiện tốt vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021; giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển; nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Bên chén trà đầu xuân, PGS.TS Lê Văn Toan (nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) chia sẻ: Năm 2020 là năm cuối cùng thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2011-2020 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020; đồng thời sẽ xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm tiếp theo. Đây cũng là năm có nhiều sự kiện chính trị, ngoại giao rất quan trọng của đất nước. Với những thành tựu to lớn đạt được sau hơn 30 năm đổi mới, chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị  sự đồng tâm, hiệp lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân mới có thể bảo đảm hoàn thành tốt một khối lượng công việc lớn và những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho năm 2020.

"Chúng tôi tin tưởng trong thời gian tới, Đảng ta sẽ tiếp tục tiến hành mạnh mẽ, có hiệu quả sự nghiệp đổi mới; đề xuất được những nội dung đột phá cả về kinh tế, chính trị và tư duy để Đảng ta tiếp tục vững mạnh, đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng; chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; xây dựng và phát huy hiệu quả hơn nữa sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng ;à người dẫn dắt toàn dân tộc đến những thắng lợi và vinh quang"- PGS.TS Lê Văn Toan khẳng định.

Clip PGS.TS Lê Văn Toan chia sẻ:

Còn tại phường Nghĩa Tân (Hà Nội), Bí thư chi bộ 7, Đại tá Bùi Minh Thắng nhấn mạnh: Trong 90 năm qua, Đảng ta  xây dựng và trưởng thành, lớn mạnh. Chúng tôi thấy rằng Đảng ta đã tự soi mình, tự sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém trong những năm trước đây để tạo cho xã hội một sự đồng thuận rất cao. Đây là một bước tiến rất dài. Với sự phát triển này, chúng tôi rất tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, động viên gia đình và khu phố tin tưởng thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước.

Clip Đại tá Bùi Minh Thắng bày tỏ về niềm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng:

Một mùa xuân mới đang về. Những thành tựu của hơn 30 năm đổi mới đất nước cùng 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH là minh chứng hùng hồn cho sự sáng suốt của Đảng ta trong khởi xướng và dẫn dắt toàn dân tộc thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước, đem lại no ấm cho nhân dân, đưa nước Việt Nam ngày một phát triển, xứng vai với cường quốc năm châu. Đây cũng là tiền đề quan trọng để toàn Đảng, toàn dân đoàn kết một lòng, xây dựng và thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và những chặng đường tiếp theo. 

Bài, video: Nhóm PV
Ảnh: Báo Tin tức, TTXVN
Trình bày:  Tuệ Thy

03/02/2020 06:00