Việt Nam không chỉ tăng trưởng mà đang từng bước nâng cao vị thế khi tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, hội nhập quốc tế chủ động hơn và ngày càng coi khoa học – công nghệ là chìa khóa cho năng suất và năng lực cạnh tranh. Đây là nhận định của Phó Giáo sư Lê Đức Anh, Khoa Điện – Điện tử của Đại học Tokyo, Đại biểu Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ XI trong cuộc phỏng vấn với phóng viên TTXVN tại Tokyo trước thềm Đại hội Thi đua yêu nước (ngày 26 - 27/12).
Phó Giáo sư Lê Đức Anh. Ảnh: Xuân Giao/TTXVN
Là một trí thức kiều bào đang công tác tại một trong những cơ sở nghiên cứu hàng đầu thế giới, PGS Lê Đức Anh chia sẻ, dù ở nước ngoài nhưng anh luôn dõi theo từng bước chuyển của đất nước và cảm nhận rất rõ Việt Nam đang bước vào giai đoạn “tự tin hơn và bản lĩnh hơn”. Tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, chất lượng hạ tầng, năng lực quản trị ở nhiều lĩnh vực, cùng với sự trưởng thành của cộng đồng doanh nghiệp và tinh thần khởi nghiệp… tạo nên động lực mới. Điều khiến anh thấy ấn tượng nhất là Việt Nam không chỉ tăng trưởng mà đang từng bước nâng cao vị thế khi tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, hội nhập quốc tế chủ động hơn và ngày càng coi khoa học – công nghệ là chìa khóa cho năng suất và năng lực cạnh tranh. Theo PGS Lê Đức Anh, dù còn nhiều thách thức nhưng tổng thể là một bức tranh tích cực và đáng kỳ vọng. “Nếu ví Việt Nam như một mạch điện, tôi thấy “điện áp” đang tăng, quan trọng là mạch phải thiết kế đủ tốt để không bị… quá tải”, chuyên gia ngành điện - điện tử ví von.
Theo chuyên gia này, để hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, Việt Nam nên ưu tiên một số định hướng chiến lược. Thứ nhất, cần lấy khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động cơ tăng năng suất. Theo đó, Việt Nam nên tập trung vào các lĩnh vực có tác động lan tỏa cao như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu, năng lượng và vật liệu mới, công nghệ y sinh, tự động hóa – robot, an ninh mạng. Điều quan trọng là không chỉ thúc đẩy nghiên cứu mà còn phải biến tri thức thành năng lực sản xuất thông qua các cơ chế chuyển giao, thương mại hóa, hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ sâu (deep-tech).
Thứ hai, Việt Nam cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng “đúng nhu cầu – đúng chuẩn – đúng tốc độ”. Cụ thể, đào tạo theo chuỗi từ phổ thông (STEM nền tảng) → đại học (kỹ năng cốt lõi) → sau đại học (năng lực nghiên cứu) → đào tạo lại. Ngoài ra, cần nâng cao năng lực đào tạo nghiên cứu và hệ thống đãi ngộ các nhà nghiên cứu trẻ và nghiên cứu sinh tiến sĩ của các tổ chức đại học trong nước; đồng thời gắn chặt với doanh nghiệp và chuẩn quốc tế thông qua các chương trình đồng thiết kế, thực tập dài hạn, phòng thí nghiệm liên kết.
Thứ ba, Việt Nam cần đầu tư có trọng tâm cho hạ tầng nghiên cứu và phát triển (R&D) và các trung tâm xuất sắc (Centers of Excellence), tức là chọn một số “mũi nhọn”, đầu tư đủ lớn, đủ lâu, đủ quyền tự chủ để tạo ra nhóm nghiên cứu mạnh và sản phẩm có sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, cần cải cách thể chế cho khoa học – công nghệ như cơ chế tài trợ linh hoạt, giảm thủ tục hành chính, đánh giá theo kết quả và tác động; khuyến khích “dám làm – dám thử – dám chấp nhận rủi ro” trong nghiên cứu và đổi mới.
Về vai trò và tiềm năng đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, PGS Lê Đức Anh cho rằng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là đội ngũ trí thức, chuyên gia, doanh nhân, có thể đóng góp theo 3 lớp giá trị gồm tri thức và công nghệ, kết nối quốc tế và văn hóa chuẩn mực và cách làm.
Để khuyến khích kiều bào gắn bó và đồng hành hiệu quả hơn, PGS nêu một số đề xuất như cơ chế “một cửa” cho dự án hợp tác kiều bào (làm rõ đầu mối, quy trình, thời gian xử lý); chính sách “đặt hàng theo nhiệm vụ quốc gia” (mời chuyên gia kiều bào tham gia theo vai trò cụ thể (PI/co-PI/cố vấn), có ngân sách và KPI minh bạch); tạo điều kiện làm việc linh hoạt (vị trí nhà nghiên cứu/giáo sư thỉnh giảng, làm việc theo đợt, hỗ trợ thủ tục hành chính, nhà ở ngắn hạn, phòng lab dùng chung); công nhận và bảo vệ giá trị sở hữu trí tuệ (khung pháp lý rõ ràng để nhà khoa học yên tâm đưa công nghệ về); và cơ chế đãi ngộ xứng đáng dựa trên kết quả và theo chuẩn quốc tế.
Với chuyên môn và kinh nghiệm nghiên cứu – giảng dạy sâu về bán dẫn, PGS Lê Đức Anh đưa ra đánh giá về cơ hội, thách thức của Việt Nam trong tham gia chuỗi giá trị bán dẫn toàn cầu. Việt Nam bước vào lĩnh vực bán dẫn trong bối cảnh đặc biệt khi chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái cấu trúc, nhu cầu nhân lực tăng mạnh và nhiều quốc gia coi bán dẫn là hạ tầng chiến lược. Vì vậy, cơ hội là rất lớn nhưng thách thức cũng không nhỏ.
Theo PGS Lê Đức Anh, Việt Nam có lực lượng lao động trẻ năng động, vị trí địa chiến lược thuận lợi, môi trường hội nhập tốt và đang thu hút đầu tư công nghệ cao. Việt Nam có thể tham gia chuỗi giá trị theo lộ trình phù hợp: thiết kế, kiểm thử – đóng gói, một phần chế tạo vật liệu/thiết bị phụ trợ và đặc biệt là nhân lực kỹ thuật chất lượng cao. Tuy nhiên, bán dẫn là lĩnh vực “đốt” rất nhiều thời gian và nguồn lực, cần hệ sinh thái công nghiệp, chuẩn chất lượng khắt khe và đầu tư dài hạn, trong khi đất nước hiện thiếu hụt nhân lực chuyên sâu và hạ tầng phòng thí nghiệm, thực hành còn thiếu đồng bộ, thiếu liên kết chặt chẽ giữa viện – trường – doanh nghiệp. Vì thế, để tiến nhanh và tiến chắc, Việt Nam cần có chiến lược tập trung theo mắt xích có lợi thế, chọn điểm vào có tính khả thi và hiệu quả thông qua việc đào tạo nhân lực thiết kế/kiểm thử, phát triển đóng gói tiên tiến, vật liệu và linh kiện phụ trợ, phát triển các ngách chuyên sâu như cảm biến, hệ thống vi cơ điện tử tích hợp (MEMS)…, tùy theo năng lực. Để tạo đột phá về nhân lực và hạ tầng đào tạo thực chiến, Việt Nam cần triển khai chương trình chuẩn hóa theo quốc tế, có lab thực hành, dự án theo chuẩn công nghiệp và hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp để sinh viên ra trường làm được việc ngay. PGS Lê Đức Anh cũng khuyến nghị cần có cơ chế hợp tác công – tư và đặt hàng dài hạn bởi lĩnh vực bán dẫn không thể chỉ dựa vào ngân sách nghiên cứu ngắn hạn, mà cần các chương trình 5–10 năm, có mục tiêu rõ ràng và doanh nghiệp tham gia từ đầu.
Bên cạnh đó, PGS Lê Đức Anh cũng cho rằng cần phát huy vai trò trí thức kiều bào như “cầu nối công nghệ – chuẩn mực – mạng lưới”. Kiều bào có thể hỗ trợ nhanh nhất ở ba việc bao gồm: thiết kế chương trình đào tạo; dẫn dắt nhóm nghiên cứu/đề án và kết nối với đối tác quốc tế, chuyển giao bí quyết. PGS kết luận lĩnh vực bán dẫn giống như leo núi cao, không thể chạy nước rút, nhưng nếu chuẩn bị đúng bản đồ, trang bị và có đội dẫn đường giỏi, Việt Nam hoàn toàn có thể lên được những “đỉnh” phù hợp, rồi từ đó mở rộng dần.