Tỉnh An Giang nằm ở đầu nguồn sông Cửu Long, đất đai màu mỡ. Sau hợp nhất, tỉnh đứng đầu cả nước về diện tích, sản lượng lúa với nhiều tiềm năng phát triển, sản lượng lúa mỗi năm khoảng 8,8 triệu tấn.
Phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, tỉnh An Giang định hướng tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng khoa học, kỹ thuật và quy trình sản xuất hiện đại, công nghệ cao, xây dựng thương hiệu nông sản, nâng cao chất lượng, giá trị để trở thành một trong những trung tâm đầu mối về nông nghiệp lớn của vùng.
Người dân An Giang thu hoạch lúa và tập kết lên xe để vận chuyển về nơi tiêu thụ. Ảnh: Thanh Sang/TTXVN
Phát triển kinh tế nông nghiệp quy mô lớn
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang Ngô Công Thức cho biết, tỉnh An Giang sau khi hợp nhất 2 tỉnh (Kiên Giang và An Giang) có diện tích sản xuất nông nghiệp lớn nhất Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước; khoảng 1,3 triệu ha lúa, sản lượng hơn 8,8 triệu tấn/năm. Tỉnh định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp quy mô lớn, giảm phát thải, ứng dụng công nghệ cao, giảm giá thành, nâng cao giá trị, định hướng trở thành trung tâm lúa gạo và thủy sản nước ngọt vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Tỉnh tập trung đẩy mạnh thu hút đầu tư công nghiệp chế biến sâu, chế biến tinh gắn với vùng nguyên liệu tập trung để tạo thành chuỗi sản xuất khép kín, dễ dàng truy xuất nguồn gốc, gia tăng giá trị của sản phẩm, xây dựng thương hiệu, đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tỉnh đang hoàn thiện các khu công nghiệp, cụm công nghiệp nhằm bao phủ các vùng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, chế biến thực hiện định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với công nghệ chế biến tinh và chế biến sâu.
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang Ngô Công Thức cũng cho hay, An Giang không những cung cấp lúa gạo cho cả nước mà còn xuất khẩu gạo với số lượng lớn. Để sản phẩm chất lượng hơn, tỉnh tham gia thực hiện Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long" với mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 đạt hơn 351.000 ha.
Tỉnh đã triển khai 55 mô hình trình diễn với tổng diện tích gần 2.000 ha cho hiệu quả tích cực, huy động được sự tham gia của các chủ thể trong chuỗi sản xuất lúa, gạo. Mô hình giúp giảm chi phí trung bình 4,12 triệu đồng/ha, tăng năng suất 0,78 tấn/ha, lợi nhuận tăng thêm 5 - 8 triệu đồng/ha so với đối chứng, mô hình giúp giảm phát thải 7,56 - 8,11 tấn khí CO2 tương đương/ha.
Bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất lúa gạo An Giang vẫn còn gặp nhiều khó khăn do tác động lớn của biến đổi khí hậu, chi phí đầu vào sản xuất lúa cao hơn so với tốc độ tăng giá bán lúa dẫn tới lợi nhuận của người trồng lúa vẫn còn thấp; chưa có nhiều công nghệ hiệu quả cao nhằm giúp tăng hiệu quả trong sản xuất lúa, giảm phát thải khí nhà kính; doanh nghiệp tham gia liên kết sản xuất lúa gạo với diện tích còn khiêm tốn; các chuỗi liên kết sản xuất lúa gạo trên địa bàn tỉnh chưa thật sự bền vững.
Vấn đề xây dựng thương hiệu gạo giảm phát thải của tỉnh trong thời gian gần đây tuy đã được quan tâm, tuy nhiên việc triển khai thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, nhất là xác định doanh nghiệp đầu tàu để tham gia, đồng hành thực hiện chiến lược xây dựng thương hiệu gạo của tỉnh. An Giang cần những nhà đầu tư chiến lược, có tiềm lực về tài chính, công nghệ, trình độ quản trị cao để khai thác có hiệu quả tiềm năng, biến lợi thế ngành nông nghiệp tỉnh An Giang thành những dự án quy mô lớn, có giá trị cao.
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang cũng cho biết, thời gian tới tỉnh tích cực triển khai Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp; phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; chỉ đạo ngành nông nghiệp phát huy vai trò “trụ đỡ” nền kinh tế; chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường.
Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào sản xuất, chế biến và bảo quản nông sản; xây dựng thương hiệu sản phẩm nông sản đặc trưng địa phương; đưa chuỗi cung ứng nông sản sang phát triển chuỗi ngành hàng; tập trung chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, hình thành các vùng nguyên liệu bền vững.
Hiệu quả từ ứng dụng kỹ thuật, công nghệ cao
Vụ Hè Thu 2025 vừa qua, Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Thạnh Xuân, xã Định Hòa được triển khai thí điểm mô hình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp với diện tích 50 ha, có 11 hộ nông dân tham gia. Mô hình thí điểm áp dụng mật độ sạ thưa (70 kg/ha), giảm 50 kg lúa giống so với mô hình canh tác truyền thống; năng suất lúa đạt 6,67 tấn/ha, cao hơn đối chứng 0,31 tấn/ha; tổng chi phí sản xuất lúa trong mô hình thấp hơn so với chi phí ngoài mô hình hơn 1,4 triệu đồng/ha; lợi nhuận trung bình của mô hình trình diễn tăng 3,9 triệu đồng/ha so với ngoài mô hình.
Ông Danh Thảo, Phó Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Thanh Xuân cho biết, việc kết hợp sạ thưa theo phương pháp sạ cụm, sạ hàng giúp giảm giống, đồng thời tăng hiệu suất sử dụng phân bón, quản lý dịch hại, quản lý nước hiệu quả, tiết kiệm. Qua đó, giúp giảm lượng phân đạm, kali, lân nguyên chất gần 50 kg/ha so với ruộng mô hình đối chứng, tương đương khoảng 1,3 triệu đồng. Ngoài ra, mô hình sử dụng phân bón cân đối đạm, lân, kali, trung vi lượng và phân hữu cơ vi sinh qua đó giúp cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt, hạn chế sâu bệnh.
Ông Danh Phương, xã Châu Thành chia sẻ, qua hơn 3 năm áp dụng mô hình sản xuất lúa chất lượng cao theo quy trình VietGAP, ứng dụng biện pháp canh tác thông minh, tiết kiệm theo khuyến cáo của ngành nông nghiệp. Theo đó, lúa giống được gieo sạ thưa khoảng 60 kg/ha, bón phân hữu cơ phối hợp bón một ít phân vô cơ đảm bảo cho cây lúa sinh trưởng. Nông dân được đầu tư trạm phát hiện và cảnh báo sâu rầy, trạm bơm tát nước thông minh điều khiển qua app điện thoại giúp phát hiện sớm các loại sâu bệnh gây hại cho lúa, tiết kiệm chi phí xăng dầu bơm tát nước, quản lý hiệu quả lượng nước vừa đủ cho cây lúa phát triển.
Hiện tại, Tổ bơm tát có diện tích hơn 500 ha, nông dân trong tổ được ngành nông nghiệp tập huấn, chuyển giao các tiến bộ khoa học, kỹ thuật canh tác như cách chọn giống lúa, cải tạo đất, quản lý nguồn nước, quy trình canh tác "3 giảm 3 tăng", "1 phải 5 giảm", chỉ phun thuốc bảo vệ thực vật khi cần thiết và tuân thủ theo nguyên tắc 4 đúng; giảm lượng nước tưới; giảm thất thoát sau thu hoạch…
"Nhờ sản xuất theo quy trình VietGAP nên lúa trong tổ hợp tác được thương lái thu mua cao hơn giá thị trường khoảng 200 đồng/kg, ít sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu giảm, giúp lợi nhuận hơn 20 triệu đồng/ha. Đặc biệt, biện pháp canh tác thông minh giúp lúa không bị đổ ngã trong mùa mưa bão, bảo vệ được năng suất”, ông Phương chi sẻ.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang Lê Hữu Toàn cho biết, thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa, bước đầu đã hình thành vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị trên địa bàn tỉnh hiệu quả và bài bản hơn. Các hợp tác xã, người dân áp dụng tốt các quy trình canh tác bền vững nhằm gia tăng giá trị, tăng thu nhập của người trồng lúa, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính.
Hàng năm, tỉnh sản xuất khoảng 100.000 lúa đạt chuẩn SRP, hữu cơ, GloabalGAP, VietGAP, kiểm soát dư lượng và đang thời kỳ chuyển đổi sản xuất hữu cơ phục vụ xuất khẩu sang các thị trường EU, Mỹ, Nhật.
Ông Lê Hữu Toàn cho biết thêm, nhiệm kỳ 2025 – 2030, Đảng ủy Sở đề ra mục tiêu tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản bình quân 4%/năm trở lên, sản lượng lúa bình quân trên 8 triệu tấn/năm trở lên. Ngành tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số toàn diện trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản; xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh quy mô lớn theo chuỗi giá trị; phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn VietGAP, GlobalGAP, SPR.
Tỉnh mở rộng diện tích áp dụng mô hình “1 Phải, 5 Giảm” đạt trên 60% diện tích gieo trồng; phát triển mạnh các giống lúa chất lượng cao, thơm, có thương hiệu; hoàn thiện chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ, đẩy mạnh xuất khẩu gạo chất lượng cao; phát triển các mô hình hợp tác xã liên kết theo chuỗi giá trị và hỗ trợ hợp tác xã tiếp cận nguồn vốn, công nghệ, thị trường xuất khẩu.