Từ đêm trường nô lệ, mùa thu năm 1945, dân tộc Việt Nam đã đứng dậy giành độc lập, đổ máu xương để giữ non sông và mở đường sống bằng chính đôi tay mình. 80 năm qua, đất nước đã đi một hành trình vĩ đại để hôm nay vững bước thực hiện hoài bão sánh vai các quốc gia phát triển vào năm 2045.
Sáng 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Ảnh: TTXVN
Bài 1: Dân tộc chọn con đường đứng thẳng
Rơi vào cảnh “một cổ hai tròng” của ách đô hộ thực dân, phát xít, người Việt Nam lại chìm trong ác mộng của nạn đói năm Ất Dậu (1945), cướp đi hơn hai triệu sinh mạng. Nhưng dân tộc Việt Nam quyết chọn con đường đứng thẳng. Ngày 2/9/1945 đã bừng sáng khi Tuyên ngôn Độc lập khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”.
Đó cũng là khởi đầu của một nước Việt Nam mới - kiêu hãnh, tự lực và bất khuất.
Rũ bùn đen nô lệ
Trong ngôi nhà trên phố Điện Biên Phủ, Hà Nội, Đại tá Nguyễn Hữu Tài (96 tuổi, nguyên Phó Cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Quốc phòng) nhớ lại cảnh “sáng mở cửa là thấy bên ngoài xác người chết đói nằm la liệt”. Năm 1945, ông là học sinh ở Kiến An, Hải Phòng, mỗi chiều tan học lại theo Hội Khất thực xin cơm về chia cho người đói.
“Khi đó nạn đói lên đến đỉnh điểm. Từng đoàn người Thái Bình, Nam Định cứ thất thểu từ ngoại ô tiến vào Hải Phòng xin ăn. Họ tới các phố trung tâm rồi gục xuống, chết cứng đờ bên đường. Cái khốc liệt ấy khiến chúng tôi hiểu rằng đất nước đã chạm đáy của sự nô lệ”, ông Nguyễn Hữu Tài hồi tưởng.
Đại tá Nguyễn Hữu Tài, nguyên Phó Cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Quốc phòng ôn lại những ký ức chiến dịch Điện Biên Phủ và sự phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ảnh: Việt Đức/ TTXVN
Năm 1944, lũ lụt, vỡ đê khiến Việt Nam bị mất mùa, rồi tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân xâm lược thi hành hàng loạt chính sách bóc lột tàn bạo, cấm vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc, bắt dân nhổ lúa trồng đay lấy nguyên liệu phục vụ chiến tranh. Tô, thuế trở thành chiếc thòng lọng buộc vào cổ người dân Việt Nam. Tất cả đã đẩy đất nước đến nạn đói thảm khốc năm 1945 với khoảng hơn 2 triệu người chết. “Ở khắp các tỉnh phía Bắc, hàng nghìn hộ dân chết cả nhà, nhiều dòng họ chỉ một vài người sống sót”, Đại tá Nguyễn Hữu Tài quặn lòng hồi tưởng lại.
Lúc ấy, những cuộc họp Việt Minh cũng diễn ra lặng lẽ nhưng sục sôi tại ngôi nhà rộng có hồ sen phía sau của gia đình ông Tài. Anh trai cả, anh trai thứ và thầy giáo của ông đều là cán bộ Việt Minh đã truyền cho những học trò niềm tin sắt đá vào cách mạng. “Chúng tôi lớn lên trong tiếng hát Tiến quân ca, Diệt phát xít, giữa những tờ truyền đơn bay khắp phố phường” - ông kể.
Tháng 8/1945, ông Nguyễn Hữu Tài tham gia Việt Minh và lên chiến khu Đông Triều. Chèo thuyền qua sông Bạch Đằng - nơi ba lần ghi chiến công hiển hách của dân tộc, trong ông lại trỗi dậy niềm tự hào. “Chúng tôi không muốn làm nô lệ. Chúng tôi muốn mình là người dân một nước độc lập, ngang hàng với các nước khác. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc”, ông Nguyễn Hữu Tài quả quyết.
Đi theo ngọn cờ cách mạng của Đảng, ông Tài tận mắt chứng kiến tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, học sinh. Cả một vùng Đông Triều - Kinh Môn vùng lên chống Nhật, giành chính quyền. Đó cũng là chuỗi mốc ông thuộc như lòng bàn tay: Ngày 16/8, Quảng Yên giành chính quyền; ngày 19/8, Hà Nội khởi nghĩa; ngày 23/8, Hải Phòng vùng lên. “Đó là một bầu không khí rạo rực, phấn khởi, hăng hái mà tôi chưa bao giờ thấy trong đời”, ông Nguyễn Hữu Tài nhớ lại.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hải Phòng, hàng vạn người dân hồi hộp lắng nghe qua loa truyền thanh lời Tuyên ngôn Độc lập từ Ba Đình. Khi Tiến quân ca vang lên, lá cờ đỏ sao vàng tung bay, ông Nguyễn Hữu Tài cảm nhận rõ rệt bước ngoặt lịch sử, biết rằng từ giây phút ấy, mình đã là công dân của một quốc gia độc lập.
Ký ức Hà Nội mùa thu lịch sử cũng khắc sâu trong tâm trí nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội Đặng Quân Thụy (98 tuổi). Khi đó ông mới 16 tuổi, là học sinh trường Bưởi. Năm 1944, giữa làn sóng cách mạng dâng cao, cậu học trò gầy gò đã trở thành thành viên Mặt trận Việt Minh của trường Bưởi. “Khi Tổng khởi nghĩa nổ ra, tôi và biển người theo lời kêu gọi của Thành ủy Hà Nội, vừa hô khẩu hiệu vừa vận động bà con khu phố nhập vào đoàn lớn tiến về Bắc Bộ Phủ”, ông Đặng Quân Thuỵ hồi tưởng lại.
“Cứ vác lá cờ đỏ sao vàng đi tới đâu là dân ùa theo tới đó. Lính bảo vệ ở Bắc Bộ Phủ thấy quần chúng đông, khí thế ngút trời, thì họ rút lui. Chúng tôi vào chiếm trụ sở rồi phân công nhau canh gác”, ông kể, mắt ánh lên niềm tự hào.
Trung tướng Đặng Quân Thụy, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội chia sẻ về ký ức những ngày tham gia Cách mạng Tháng Tám 1945. Ảnh: Việt Đức/ TTXVN
Sáng 2/9/1945, ông Đặng Quân Thụy cùng cán bộ Mặt trận đứng giữa Quảng trường Ba Đình. “Khi nghe Bác Hồ hỏi: Tôi nói đồng bào có nghe rõ không? Lúc đó tôi và cả quảng trường đồng thành đáp: Có”, ông Đặng Quân Thuỵ xúc động nhớ lại.
Phó giáo sư Nguyễn Thị Ban (98 tuổi, ở phố Tôn Thất Thiệp, Hà Nội), nguyên Giám đốc Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 1, lúc đó là nữ sinh trường Đồng Khánh. Bà cũng nhớ như in cảnh những phố Hàng Đào, Hàng Khay, Hàng Bông, Hàng Than…, đoàn biểu tình dưới ngọn cờ của Đảng đã rầm rộ tuần hành thị uy, đánh đổ chính quyền bù nhìn thân Nhật.
“Các tiểu thương cũng bỏ hàng hóa để nhập vào đoàn. Sáng 2/9/1945, tôi cùng dòng người khắp nơi kéo về Quảng trường Ba Đình, tay cầm cờ đỏ sao vàng, hô vang khẩu hiệu Độc lập”, bà Nguyễn Thị Ban chia sẻ.
Bản lĩnh Nhà nước non trẻ
Nhắc đến bản lĩnh của chính quyền non trẻ khi ấy, cả ba nhân chứng lịch sử quả quyết chỉ trong thời gian ngắn, “giặc đói” đã bị đẩy lùi. Chiến thắng đầu tiên của chính quyền non trẻ đã minh chứng sức mạnh đoàn kết và tình thương giữa những con người vừa thoát kiếp nô lệ.
“Trước lời kêu gọi của Bác, cả nước dấy lên phong trào “mỗi người nhịn một bữa”, “Phá kho thóc Nhật cứu đói”. Từ nông dân đến viên chức, dù thiếu gạo, nhưng vẫn sẻ chia từng nắm cơm, bát cháo cho người khốn khó hơn mình”, Đại tá Nguyễn Hữu Tài nhớ lại.
Trong muôn trùng khó khăn “thù trong, giặc ngoài”, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vẫn thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng độc lập, dân chủ. Chỉ trong vài tháng đã diễn ra Tổng tuyển cử trong cả nước bầu đại biểu Quốc hội khóa I; Chính phủ ra đời từ Quốc hội; bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập được thông qua.
“Không thể tưởng tượng nổi, đất nước lầm than, phần lớn người dân mù chữ mà lại có cuộc Tổng tuyển cử dân chủ, văn minh thế. Người dân rất háo hức thực hiện quyền công dân”, bà Nguyễn Thị Ban bộc bạch.
Trước cảnh hàng chục vạn cử tri Thủ đô đi làm nghĩa vụ công dân, bọn phản động tìm cách phá hoại. Ở khu Ngũ Xá, chúng mang cả súng liên thanh đến ngăn cản dân phố đi bầu cử, cấm treo cờ đỏ sao vàng, cấm đặt hòm phiếu. Nhân dân không chịu khuất phục kéo sang khu Nguyễn Thái Học gần đó bỏ phiếu. “Khi ấy, Hiến pháp hay tổ chức chính quyền còn mới lắm, nhưng chỉ cần nghe Độc lập, Thống nhất, dân ủng hộ hết lòng”, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội Đặng Quân Thuỵ xúc động nói.
80 năm sau ngày Độc lập, quốc tế càng đánh giá sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tiền thân của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam có tầm ảnh hưởng quốc tế. Thứ trưởng Bộ Khoa học và Giáo dục Đại học Nga Kostantin Ilyich Mogilevsky, đồng Chủ tịch Hội Lịch sử Nga khẳng định: Lần đầu tiên trong lịch sử châu Á, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đã tự mình lật đổ ách thống trị thực dân, mở tương lai đất nước. Ngày nay, tiền lệ này đang trở nên đặc biệt thời sự.
"Cả thế giới đang trải qua sự chuyển đổi sâu sắc. Ngày càng nhiều quốc gia và dân tộc lựa chọn con đường phát triển tự do, độc lập dựa trên giá trị truyền thống của mình. Thay đổi tích cực này thể hiện nguyên tắc bình đẳng của tất cả chủ thể tham gia vào quan hệ quốc tế đã chín muồi một cách khách quan"- ông Kostantin Ilyich Mogilevsky nhấn mạnh.
Bài 2: Dựng nước hôm qua, giữ nước hôm nay