12:17 30/12/2025

Tín dụng tăng mạnh và chuyện tiếp cận vốn của doanh nghiệp

Năm 2025, thị trường tài chính – tiền tệ Việt Nam ghi nhận một dấu mốc đáng chú ý khi tăng trưởng tín dụng dự kiến đạt khoảng 19%, mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.

Con số này phản ánh rõ nỗ lực trong điều hành chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ tăng trưởng, khơi thông dòng vốn ngân hàng và thúc đẩy nền kinh tế trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn.

Tuy nhiên, nhìn từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp, bức tranh tín dụng năm 2025 vẫn cho thấy những gam màu đan xen. Dù mặt bằng lãi suất đã hạ nhiệt so với giai đoạn trước, khả năng tiếp cận vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn vẫn là thách thức đối với nhiều doanh nghiệp.

Chú thích ảnh
Khách hàng giao dịch tại Hội sở chính Vietcombank. Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN

Một năm khá “êm” với doanh nghiệp vay ngân hàng

Theo đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp, mặt bằng lãi suất trong năm 2025 đã có sự cải thiện rõ rệt so với giai đoạn 2023–2024 - thời điểm chi phí vốn tăng cao và trở thành lực cản lớn đối với hoạt động sản xuất – kinh doanh. Việc lãi suất hạ nhiệt đã góp phần giúp doanh nghiệp giảm áp lực tài chính, từng bước cải thiện dòng tiền và khôi phục hiệu quả hoạt động.

Ông Phạm Văn Xô, Chủ tịch Hiệp hội Xuất nhập khẩu TP. Hồ Chí Minh; đồng thời là Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Linker Group cho biết, mặt bằng lãi suất năm nay được duy trì ở mức tương đối hợp lý, phù hợp hơn với khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp. Cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng lãi suất sẽ tiếp tục được neo theo hướng ổn định trong giai đoạn 2026–2027, qua đó, tạo nền tảng cho các kế hoạch đầu tư, mở rộng sản xuất – kinh doanh trong trung và dài hạn.

Trước đó, khi lãi suất duy trì ở mức cao, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng. Nhận diện rõ thách thức này, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm hạ nhiệt mặt bằng lãi suất và tháo gỡ khó khăn cho khu vực doanh nghiệp.

Các biện pháp như giảm lãi suất điều hành, định hướng các ngân hàng thương mại tiết giảm chi phí. Đồng thời, cải cách thủ tục cho vay đã phát huy tác động tích cực, giúp dòng vốn tín dụng lưu thông thuận lợi hơn.

Đáng chú ý, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, một số điều kiện về tài sản bảo đảm cũng đã được nới lỏng ở mức nhất định trong năm nay. Các mô hình cho vay dựa trên dòng tiền, uy tín tín dụng và hiệu quả sản xuất – kinh doanh đang từng bước được triển khai, qua đó, góp phần cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và tạo thêm dư địa phục hồi cho khu vực kinh tế tư nhân.

Bà Phạm Thị Minh Huệ, Giám đốc Tài chính Công ty Xuất nhập khẩu và Thương mại Ánh Dương (TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, năm 2025 ghi nhận những chuyển biến tích cực về chính sách tiền tệ, khi lãi suất vay ngân hàng đã giảm so với năm trước. Trong 6 tháng đầu năm, lãi suất cho vay giảm khoảng 0,3–0,6 điểm phần trăm, phù hợp với định hướng hỗ trợ sản xuất – kinh doanh của Ngân hàng Nhà nước.

Tuy nhiên, bà Huệ cũng thẳng thắn nhìn nhận, dù lãi suất giảm, việc tiếp cận vốn vay vẫn chưa thực sự thuận lợi. Sau giai đoạn kinh tế biến động mạnh, các ngân hàng trở nên thận trọng hơn trong hoạt động cho vay, dẫn đến việc siết chặt các điều kiện tín dụng. Đặc biệt, các khoản vay trung và dài hạn – vốn đóng vai trò then chốt cho đầu tư mở rộng sản xuất – lại là phân khúc khó tiếp cận nhất.

Theo bà Huệ, các khoản vay ngắn hạn từ 3–6 tháng hiện vẫn tương đối ổn định, nhưng lại không đáp ứng được nhu cầu đầu tư bài bản của doanh nghiệp. Trong khi đó, khi doanh nghiệp làm hồ sơ vay trung – dài hạn, các yêu cầu cao về dòng tiền, tài sản bảo đảm và khả năng chịu đựng rủi ro khiến nhiều doanh nghiệp không còn đủ điều kiện vay vốn, từ đó hạn chế khả năng tích lũy và phát triển trong dài hạn.

Nhiều doanh nghiệp cho rằng, vấn đề cốt lõi hiện nay không chỉ nằm ở chi phí vốn mà còn ở khả năng tiếp cận tín dụng. Trên thực tế, yêu cầu về tài sản bảo đảm vẫn là rào cản lớn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phần lớn các tổ chức tín dụng vẫn ưu tiên cấp vốn cho doanh nghiệp có tài sản thế chấp rõ ràng, trong khi nhiều doanh nghiệp nhỏ, dù có đơn hàng, dòng tiền và hiệu quả kinh doanh ổn định vẫn gặp khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chí tín dụng truyền thống.

Kỳ vọng chính sách cho năm 2026

Nếu với doanh nghiệp nhỏ và vừa, bài toán lớn nhất là tiếp cận vốn, thì với các doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn, chi phí tài chính vẫn đang là áp lực kép, nhất là trong bối cảnh lãi suất ngân hàng có xu hướng nhích tăng vào cuối năm.

Ông Nguyễn Thanh Nghĩa, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đại Thiên Lộ cho biết, đặc thù ngành thép có tỷ trọng nguyên vật liệu nhập khẩu cao, đặc biệt là thép cuộn cán nóng (HRC), khiến nhu cầu vốn vay và chi phí lãi vay ngân hàng rất lớn. 

Theo ông Nghĩa, thời gian gần đây, việc một số ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất cho vay đã tác động trực tiếp đến kế hoạch tài chính của doanh nghiệp. Với tổng hạn mức vay trên 1.000 tỷ đồng, chỉ cần lãi suất tăng thêm 1 điểm phần trăm mỗi năm cũng đủ làm gia tăng đáng kể chi phí tài chính, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất – kinh doanh.

Không chỉ chịu áp lực từ chi phí vốn, các doanh nghiệp ngành thép còn đối mặt với nhiều khó khăn từ thị trường xuất khẩu. Các biện pháp chống bán phá giá của Mỹ, cùng với việc Liên minh châu Âu siết chặt hạn ngạch nhập khẩu, đã khiến đầu ra của các sản phẩm tôn mạ, tôn lạnh, tôn màu của doanh nghiệp Việt Nam bị thu hẹp đáng kể. Sản lượng xuất khẩu sụt giảm kéo theo dòng tiền suy yếu, làm gia tăng rủi ro tài chính.

Ở trong nước, ông Nghĩa cho biết, giai đoạn cuối năm cũng là thời điểm áp lực tài chính tăng cao khi doanh nghiệp phải điều chỉnh lương tối thiểu, chi trả các khoản phúc lợi và chăm lo đời sống người lao động dịp lễ, Tết. Với những doanh nghiệp có quy mô lao động lớn, việc ngân hàng điều chỉnh lãi suất trong giai đoạn này càng khiến áp lực chi phí thêm gánh nặng.

Từ góc độ thị trường, ông Vũ Bình Minh, Giám đốc Kinh doanh vốn và tiền tệ, Khối Thị trường vốn và Dịch vụ Chứng khoán HSBC Việt Nam cho rằng, bức tranh tài chính – tiền tệ năm 2025 không hoàn toàn “màu hồng”. Trong nửa đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, giúp mặt bằng lãi suất liên ngân hàng duy trì ổn định, qua đó, hỗ trợ tăng trưởng tín dụng trong bối cảnh Việt Nam chịu nhiều rủi ro từ thuế quan và thương mại quốc tế.

Tuy nhiên, bước vào những tháng cuối năm, áp lực tăng lãi suất VNĐ xuất hiện rõ rệt khi nhu cầu tín dụng tăng mạnh theo chu kỳ mùa vụ. Điều này thể hiện qua chênh lệch giữa tăng trưởng dư nợ tín dụng và huy động vốn. Áp lực thanh khoản khiến lãi suất khó duy trì ở mức thấp như kỳ vọng của doanh nghiệp.

Thực tế, diễn biến này đã thu hẹp dư địa duy trì mặt bằng lãi suất thấp, đồng thời tạo áp lực điều chỉnh lãi suất tại một số phân khúc cho vay, nhất là vào giai đoạn cao điểm cuối năm. Trong bối cảnh đó, cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng chính sách tiền tệ được điều hành theo hướng ổn định, có tính dự báo cao, nhằm hạn chế các biến động đột ngột và tạo điều kiện để doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch tài chính, đầu tư trung và dài hạn.

Bước sang năm 2026, doanh nghiệp mong muốn Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời triển khai chính sách tín dụng theo hướng đi vào chiều sâu, tập trung duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý, đơn giản hóa thủ tục vay vốn và hoàn thiện các tiêu chí tín dụng, tài sản bảo đảm theo hướng linh hoạt hơn, phù hợp với thực tiễn hoạt động, đặc biệt đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Định hướng này cũng đã được Ngân hàng Nhà nước khẳng định tại họp báo về điều hành chính sách tiền tệ năm 2025, tổ chức ngày 29/12. Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn và thách thức đan xen, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục bám sát mục tiêu, định hướng của Đảng và Chính phủ, điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Đối với tín dụng, Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ điều hành tăng trưởng tín dụng phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế; vừa hỗ trợ tăng trưởng, vừa bảo đảm an toàn hệ thống, nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát hiệu quả nợ xấu. Dòng vốn tín dụng tiếp tục được định hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế, đồng thời tăng cường giám sát, quản lý rủi ro đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, qua đó tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững trong giai đoạn tới.

Huyền Trang - Hứa Chung (TTXVN)