12:10 18/12/2025

Tiêu chuẩn xanh sẽ là ‘giấy thông hành’ trong thương mại quốc tế

Những năm gần đây, Việt Nam đã chuyển từ tư duy “mở rộng năng lượng tái tạo” sang cách tiếp cận “xanh hóa hệ thống năng lượng”, chú trọng đến chất lượng phát thải, hiệu quả vận hành và tác động môi trường trong toàn bộ vòng đời các dự án.

Chú thích ảnh
TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng Cố vấn Chính sách của Thủ tướng trình bày tham luận: Chiến lược năng lượng xanh của Việt Nam trong bối cảnh mới.

Hiệu quả phát thải làm trọng tâm

Một số chuyên gia cho rằng, chiến lược năng lượng xanh, không chỉ là mở rộng nguồn điện tái tạo, mà là chuyển đổi tổng thể hệ thống năng lượng theo hướng ít phát thải, hiệu quả cao và phù hợp chuẩn mực quốc tế.

Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng Cố vấn Chính sách của Thủ tướng, việc điều chỉnh Quy hoạch điện VIII và ban hành Chương trình Quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả (VNEEP3) đã tạo nền tảng cho chiến lược năng lượng xanh.

“Chiến lược năng lượng xanh của Việt Nam định hướng trên 3 trụ cột chính: Giảm phát thải khí nhà kính trong toàn bộ vòng đời dự án năng lượng, phù hợp lộ trình Net Zero (phát thải ròng bằng 0) 2050; mở rộng các nguồn năng lượng xanh như: Điện gió, điện mặt trời, thủy triều, địa nhiệt, kết hợp với lưu trữ năng lượng; xanh hóa hệ thống từ sản xuất - truyền tải - phân phối - tiêu thụ, bao gồm điện khí LNG (khí thiên nhiên hóa lỏng) hiệu suất cao, lưới điện thông minh và các giải pháp tiết kiệm - đáp ứng phụ tải”, TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết.

Các mục tiêu giai đoạn 2026 - 2030 gồm: Tăng tỷ lệ năng lượng xanh trong hệ thống lên mức 45 - 50% sản lượng điện; đảm bảo 100% dự án năng lượng mới đánh giá tác động vòng đời (LCA – Life Cycle Assessment); phát triển hệ thống lưới điện thông minh và lưu trữ để hấp thụ tối đa nguồn gió – mặt trời; giảm cường độ năng lượng 1 - 1,5%/năm thông qua tiết kiệm điện và tiêu thụ xanh.

“Định hướng này cho thấy, Việt Nam không chỉ tăng công suất mà còn đặt chất lượng môi trường và hiệu quả phát thải làm trọng tâm”, TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết.

Trong lộ trình thực hiện cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, Việt Nam đang bước vào một giai đoạn chuyển dịch năng lượng sâu rộng và phức tạp. Quá trình này diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao, kéo theo nhu cầu điện năng tăng nhanh, ước tính từ 8 - 10% mỗi năm. 

“Điều đó đặt Việt Nam trước một áp lực kép, vừa phải bảo đảm đủ điện cho phát triển kinh tế – xã hội, vừa phải chuyển đổi sang hệ thống năng lượng xanh, sạch và bền vững”, ông Nguyễn Anh Tuấn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nêu tại Hội thảo “Hợp tác kinh tế quốc tế về năng lượng và thương mại tự do” diễn ra mới đây.

Chú thích ảnh
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam.

Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, năng lượng và thương mại tự do đã không còn tồn tại như 2 lĩnh vực tách biệt mà ngày càng gắn chặt với nhau, trở thành động lực then chốt định hình trật tự kinh tế thế kỷ XXI. Ông Nguyễn Anh Tuấn cho rằng, các tiêu chuẩn xanh đang dần trở thành “giấy thông hành” mới của thương mại quốc tế. Là nền kinh tế có độ mở cao và tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam đang chịu tác động rõ rệt từ xu thế này. 

“Khi các hàng rào thuế quan truyền thống dần được gỡ bỏ, những yêu cầu kỹ thuật liên quan đến môi trường, phát thải carbon lại ngày càng chặt chẽ. Các cơ chế như điều chỉnh biên giới carbon của Liên minh châu Âu hay các đạo luật tương tự tại Mỹ và một số thị trường lớn khác đang tạo ra những chuẩn mực mới đối với hàng hóa xuất khẩu”, Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhận định.

Nếu sản phẩm của Việt Nam, từ hàng tiêu dùng đến sản phẩm công nghệ cao, vẫn được sản xuất dựa trên nguồn năng lượng phát thải cao, lợi thế cạnh tranh sẽ bị suy giảm nghiêm trọng, ngay cả khi thuế nhập khẩu được cắt giảm về mức 0%. Do vậy, chuyển dịch năng lượng không chỉ là yêu cầu về môi trường mà trở thành vấn đề mang tính sống còn đối với năng lực cạnh tranh Quốc gia.

Về định hướng chính sách, ông Nguyễn Anh Tuấn nhấn mạnh: Cam kết Net Zero được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam công bố tại Hội nghị thượng đỉnh về Biến đổi Khí hậu lần thứ 26 (COP26) là tuyên bố mang ý nghĩa chính trị và kinh tế sâu sắc, thể hiện tầm nhìn dài hạn của đất nước. 

Để hiện thực hóa cam kết này, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đã được phê duyệt, trong đó ưu tiên phát triển mạnh mẽ năng lượng tái tạo, từng bước giảm phụ thuộc vào điện than và sử dụng điện khí LNG như một giải pháp chuyển tiếp.

Tuy nhiên quá trình này đòi hỏi nguồn lực tài chính rất lớn. Theo ước tính, riêng giai đoạn đến năm 2030, Việt Nam cần hơn 136 tỷ USD để đầu tư cho nguồn điện và lưới điện. Trong điều kiện nguồn lực trong nước còn hạn chế, đây là thách thức lớn đối với khả năng triển khai.

Hợp tác quốc tế là giải pháp then chốt

Theo TS Lê Xuân Nghĩa, để chiến lược năng lượng xanh được triển khai hiệu quả, Việt Nam cần ban hành Bộ tiêu chí “Năng lượng xanh Quốc gia”.

Bộ tiêu chí cần phân biệt rõ năng lượng tái tạo và năng lượng xanh; đánh giá phát thải vòng đời (LCA); tiêu chuẩn hóa công nghệ, vật liệu, quy trình vận hành; yêu cầu thu hồi – tái chế tấm pin, pin lưu trữ. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thu hút đầu tư chất lượng cao.

“Với phát triển lưới điện thông minh và hạ tầng lưu trữ, cần ưu tiên vốn cho lưới truyền tải miền Bắc và miền Trung; phát triển 10.000 - 15.000 MW lưu trữ; áp dụng công nghệ điều khiển tiên tiến để giảm nghẽn mạch và tăng khả năng hấp thụ nguồn xanh”, TS Lê Xuân Nghĩa cho biết. Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế giá điện xanh minh bạch; hỗ trợ khu công nghiệp và doanh nghiệp xanh hóa sản xuất; tăng cường hợp tác quốc tế. 

Trước thực tế này, ông Nguyễn Anh Tuấn cho rằng, hợp tác quốc tế là giải pháp then chốt và cần được triển khai theo chiều sâu, thực chất dựa trên 3 trụ cột chính. 

Thứ nhất, hợp tác về tài chính xanh và chia sẻ rủi ro, trong đó Việt Nam đang tích cực triển khai Thỏa thuận Đối tác chuyển dịch năng lượng bình đẳng (JETP). Bên cạnh đó, cần phát huy các cơ chế tài chính hỗn hợp, sử dụng vốn ưu đãi làm “vốn mồi” để thu hút dòng vốn tư nhân quốc tế vào các dự án năng lượng sạch.

Trụ cột thứ hai, hợp tác công nghệ và nghiên cứu – phát triển. Thay vì chỉ dừng ở việc mua sắm thiết bị, Việt Nam cần thúc đẩy các hình thức hợp tác dài hạn, khuyến khích các tập đoàn năng lượng lớn thiết lập Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển (R&D), chuyển giao công nghệ và nội địa hóa sản xuất, đặc biệt trong các lĩnh vực then chốt như lưới điện thông minh và lưu trữ năng lượng.

Trụ cột thứ ba liên quan đến hoàn thiện thể chế, chính sách và thị trường. Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, công nghệ chỉ có thể phát huy hiệu quả khi đi kèm với khung pháp lý phù hợp. Việc sớm hoàn thiện cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), phát triển thị trường tín chỉ carbon và tăng cường hợp tác khu vực, đặc biệt, hiện thực hóa Lưới điện ASEAN sẽ góp phần tối ưu hóa nguồn lực và nâng cao an ninh năng lượng.

Từ góc độ khác, ông Đặng Huy Đông, nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) cho rằng, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực năng lượng hiện vẫn gặp nhiều rào cản, đặc biệt đối với các dự án điện khí LNG. Một số cơ chế được đề xuất trong Quy hoạch điện VIII nhằm cải thiện khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chưa được phê duyệt, tạo ra tín hiệu chưa thực sự tích cực đối với nhà đầu tư quốc tế.

Theo ông Đặng Huy Đông, trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng cao trong thời gian tới, việc bảo đảm nguồn cung điện ổn định, tin cậy và có giá cạnh tranh là điều kiện tiên quyết để tận dụng hiệu quả các cơ hội từ hội nhập kinh tế và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Chuyển dịch năng lượng xanh là hành trình dài và nhiều thách thức nhưng không thể đảo ngược. Việc kiến tạo thành công hệ sinh thái năng lượng xanh không chỉ giúp Việt Nam thực hiện cam kết khí hậu mà còn tạo nền tảng để nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, hướng tới một nền kinh tế xanh, bền vững và có sức cạnh tranh dài hạn.

Minh Phương/Báo Tin tức và Dân tộc