Sau khi Bộ Tài chính tiếp thu ý kiến từ Quốc hội về Luật Thuế thu nhập cá nhân, nhiều điều chỉnh quan trọng đã được đưa ra như điều chỉnh biểu thuế lũy tiến, giảm thuế suất và nâng ngưỡng doanh thu không chịu thuế đối với hộ kinh doanh.
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (đoàn ĐBQH thành phố Hải Phòng) trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN. Ảnh tư liệu: Hải Ngọc/TTXVN
Ngày 27/11, trao đổi với phóng viên Thông tấn xã Việt Nam, bên lề kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn Hải Phòng) đánh giá các bước đi này là tích cực, giảm gánh nặng cho người làm công và hộ kinh doanh nhỏ. Tuy nhiên, đại biểu nhấn mạnh vẫn cần tiếp tục nghiên cứu, đảm bảo chính sách thuế linh hoạt, công bằng, phản ánh đúng chi phí và khả năng nộp thuế thực tế, đồng thời hỗ trợ hiệu quả cho hộ kinh doanh phục hồi và phát triển bền vững.
Sau khi Bộ Tài chính tiếp thu ý kiến tại các phiên thảo luận tổ và thảo luận tại hội trường về Luật Thuế thu nhập cá nhân, nhiều nội dung quan trọng như điều chỉnh bậc thuế và giảm thuế suất đã được bổ sung. Đại biểu đánh giá những điều chỉnh này đã đáp ứng kỳ vọng của cử tri và phù hợp với thực tiễn thu nhập hiện nay hay chưa?
Trước hết, tôi đánh giá cao nỗ lực tiếp thu nghiêm túc và cầu thị của Bộ Tài chính khi điều chỉnh nhiều nội dung lớn liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân, đặc biệt là người làm công ăn lương. Việc điều chỉnh bậc thuế, kéo giãn khoảng cách giữa các bậc và giảm thuế suất ở một số bậc thấp hơn là một bước đi đúng hướng, thể hiện sự thấu hiểu đối với bối cảnh thu nhập, chi phí đang có nhiều biến động mạnh. Trong bối cảnh giá cả tiêu dùng, chi phí sinh hoạt, chi phí giáo dục, y tế đều tăng, thì việc chính sách thuế không điều chỉnh sẽ tạo áp lực rất lớn cho hàng triệu người lao động.
Những điều chỉnh lần này góp phần giảm đáng kể gánh nặng thuế, tăng thu nhập khả dụng và từ đó thúc đẩy tiêu dùng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, chúng ta cũng đang tiến gần hơn với thông lệ quốc tế, nơi bậc thuế và ngưỡng tính thuế thường được cập nhật định kỳ theo lạm phát. Tuy nhiên, tôi cho rằng kỳ vọng của cử tri vẫn còn cao hơn. Điều chỉnh lần này là tích cực, nhưng chưa thật sự tương xứng với tốc độ tăng giá và chi phí sinh hoạt thực tế, đặc biệt đối với nhóm thu nhập thấp và trung bình. Nhiều ý kiến đề nghị cần có cơ chế tự động điều chỉnh giảm trừ gia cảnh theo lạm phát, tránh tình trạng phải chờ sửa luật mới được cập nhật.
Có thể thấy, các điều chỉnh mà Bộ Tài chính đề xuất đã tạo ra sự thay đổi rõ rệt, từng bước tiệm cận kỳ vọng của người dân. Song vẫn cần tiếp tục nghiên cứu để chính sách thuế thu nhập cá nhân thực sự linh hoạt, cập nhật theo thực tiễn, phản ánh đúng mức sống tối thiểu và bảo đảm công bằng cho người nộp thuế.
Việc Bộ Tài chính điều chỉnh nâng mạnh ngưỡng doanh thu không chịu thuế đối với cá nhân kinh doanh; trong đó có đề xuất xem xét mức cao hơn 200 triệu đồng/năm được cho là để bảo đảm công bằng với người làm công ăn lương. Đại biểu nhìn nhận sự điều chỉnh này đã hợp lý, đồng bộ và đủ mức hỗ trợ cho nhóm hộ kinh doanh nhỏ chưa?
Tôi đánh giá cao việc Bộ Tài chính chủ động đề xuất nâng ngưỡng doanh thu không chịu thuế cho hộ kinh doanh, nhưng cần thẳng thắn rằng mức 200 triệu đồng/năm vẫn chưa thực sự hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Bởi nếu tính bình quân, doanh thu chưa tới 20 triệu đồng/tháng đã phải bắt đầu kê khai và nộp thuế. Đây là con số rất nhỏ nếu đặt vào thực tế hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ tại các đô thị - nơi chi phí mặt bằng, nguyên liệu, nhân công đều ở mức cao. Với các ngành có tỷ suất lợi nhuận chỉ 5 - 10%, doanh thu không phản ánh được “khả năng nộp thuế thực” của họ, vì phần lớn doanh thu chỉ đủ trang trải chi phí.
Chúng ta phải phân biệt công bằng thuế với đồng nhất thuế. Người làm công ăn lương có thu nhập ổn định, được doanh nghiệp trả lương, không phải gánh rủi ro thị trường. Hộ kinh doanh thì ngược lại: tự đầu tư, tự chịu rủi ro, thu nhập biến động theo mùa vụ, theo thị trường và có rất nhiều khoản chi phí phát sinh. Vì vậy, ngưỡng chịu thuế của họ không thể giống với thu nhập chịu thuế của nhóm có thu nhập ổn định. Do đó, theo tôi, cần tiếp tục xem xét nâng ngưỡng này lên mức cao hơn 200 triệu đồng hoặc phân loại theo ngành, lĩnh vực - vùng miền. Một số ngành như hàng ăn nhỏ, tạp hóa, may sửa, dịch vụ gia đình… có biên lợi nhuận rất thấp và cần được thiết kế mức ngưỡng phù hợp hơn. Chỉ khi đó chúng ta mới đảm bảo được hai nguyên tắc: hỗ trợ đúng đối tượng và nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài.
Tóm lại, việc nâng ngưỡng là đúng hướng nhưng mức 200 triệu đồng/năm còn thấp, chưa tạo được dư địa đủ rộng cho hộ kinh doanh nhỏ phục hồi và phát triển bền vững. Chính sách cần tiếp tục được nghiên cứu sâu hơn để bảo đảm đồng bộ, công bằng và sát thực tế.
Một điểm mới quan trọng là Bộ Tài chính đề xuất chuyển sang thu thuế dựa trên thu nhập (doanh thu trừ chi phí) cho nhóm doanh thu dưới 3 tỷ đồng thay vì thu từ đồng đầu tiên. Theo đại biểu, sự điều chỉnh này phản ánh đúng bản chất thu nhập và có khả năng triển khai hiệu quả trên thực tế hay không?
Tôi đánh giá đây là một động thái cải cách mạnh mẽ, tiến bộ và phản ánh đúng bản chất của thuế: đánh vào thu nhập thực, chứ không phải doanh thu gộp. Với hộ kinh doanh nhỏ, đặc biệt nhóm dưới 3 tỷ đồng doanh thu, khoản chi phí đầu vào chiếm tỷ trọng rất lớn. Nếu thu thuế theo doanh thu từ đồng đầu tiên như hiện hành thì không phản ánh được sức chịu thuế của họ, tạo cảm giác chưa thực sự công bằng.
Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng nhất là khả năng triển khai. Việc tính thu nhập thực đòi hỏi hộ kinh doanh phải có thói quen ghi chép sổ sách, lưu giữ hóa đơn, chứng từ, điều mà rất nhiều hộ hiện nay chưa quen hoặc chưa đủ điều kiện thực hiện. Nếu không có cơ chế hỗ trợ rõ ràng, rất dễ dẫn tới tình trạng kê khai chi phí không chính xác, thậm chí gây thất thu hoặc phát sinh tiêu cực trong quá trình xác định thu nhập chịu thuế.
Do đó, để chính sách khả thi, cần thực hiện đồng thời ba giải pháp: Thứ nhất là chuẩn hóa tỷ lệ chi phí hợp lý theo từng ngành nghề để hộ kinh doanh dễ kê khai, cơ quan thuế dễ kiểm tra. Thứ hai là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ như: hóa đơn điện tử, máy tính tiền kết nối trực tiếp với cơ quan thuế để giảm thiểu can thiệp thủ công. Thứ ba, tăng cường truyền thông, tập huấn và hỗ trợ kỹ thuật cho hộ kinh doanh ở mọi quy mô, đặc biệt ở khu vực nông thôn.
Về nguyên tắc, chính sách này là đúng, hợp lý và tiến bộ. Nhưng tính hiệu quả khi triển khai phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng của hạ tầng số, năng lực quản lý và sự thay đổi thói quen của người nộp thuế. Nếu làm tốt, đây sẽ là bước ngoặt giúp chính sách thuế tiệm cận với chuẩn mực quốc tế và công bằng hơn cho người dân.
Trân trọng cảm ơn đại biểu.