Tiếp tục chương trình Kỳ họp, sáng 26/11, Quốc hội biểu quyết thông qua 4 luật, gồm: Luật Dẫn độ, Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, Luật Tương trợ tư pháp về dân sự, Luật Tương trợ tư pháp về hình sự.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Dẫn độ. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
* Với 426/430 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 89,87% tổng số đại biểu, Quốc hội đã thông qua Luật Dẫn độ.
Luật Dẫn độ gồm 4 chương, 45 điều; quy định nguyên tắc, thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện dẫn độ giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong dẫn độ.
Theo đó, Bộ Công an là cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về dẫn độ; có trách nhiệm làm đầu mối trao đổi thông tin, tài liệu liên quan đến dẫn độ; hướng dẫn, lập, gửi và tiếp nhận hồ sơ yêu cầu dẫn độ; chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xem xét, giải quyết yêu cầu dẫn độ của Việt Nam và của nước ngoài; theo dõi, đôn đốc việc thực hiện dẫn độ; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật về dẫn độ và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Các trường hợp có thể bị dẫn độ gồm: Người có thể bị dẫn độ là người có hành vi phạm tội mà pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài quy định hình phạt tù có thời hạn từ 1 năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình hoặc đã bị tòa án của nước yêu cầu dẫn độ xử phạt tù mà thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người đó còn lại ít nhất 6 tháng.
Hành vi phạm tội của người được quy định tại khoản 1 điều này không nhất thiết phải thuộc cùng một nhóm tội hoặc cùng một tội danh, các yếu tố cấu thành tội phạm không nhất thiết phải giống nhau hoàn toàn theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài.
Trường hợp nước ngoài yêu cầu dẫn độ liên quan đến người có nhiều hành vi phạm tội, trong đó mỗi hành vi cấu thành một tội phạm theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài và có ít nhất một hành vi đáp ứng được các điều kiện quy định tại khoản 1 của điều này thì Việt Nam có thể đồng ý dẫn độ người đó.
Trường hợp Việt Nam là nước yêu cầu dẫn độ, Bộ Công an đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đồng ý dẫn độ với các trường hợp tương tự.
Trường hợp hành vi phạm tội của người được quy định tại khoản 1 điều này xảy ra ngoài lãnh thổ của Việt Nam thì việc dẫn độ người đó có thể được thực hiện nếu pháp luật Việt Nam quy định hành vi đó là hành vi phạm tội.
* Với 429/430 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 90,51% tổng số đại biểu, Quốc hội đã thông qua Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Ảnh: Doãn Tấn/ TTXVN
Luật gồm 4 chương, 48 điều; quy định nguyên tắc, thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù.
Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù được thực hiện theo quy định của Luật này; trường hợp Luật này không quy định thì áp dụng quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, pháp luật về thi hành án hình sự và quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan.
Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc: Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Trường hợp Việt Nam và nước ngoài không cùng là thành viên của điều ước quốc tế về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, việc chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế. Tôn trọng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người đang chấp hành án phạt tù.
Trường hợp hình phạt tù trong bản án, quyết định mà tòa án của nước chuyển giao đã tuyên đối với người đang chấp hành án phạt tù không phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự và các quy định khác của pháp luật Việt Nam, phải chuyển đổi cho phù hợp. Việc chuyển đổi hình phạt tù phải căn cứ vào các tình tiết của vụ án được nêu trong bản án, quyết định đã được tòa án của nước chuyển giao tuyên.
Hình phạt tù chuyển đổi không được nghiêm khắc hơn hình phạt tù mà tòa án của nước chuyển giao đã tuyên về tính chất và thời hạn. Thời gian đã chấp hành án phạt tù ở nước chuyển giao được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam. Người đang chấp hành án phạt tù được tiếp nhận về Việt Nam không bị kết án lần thứ hai về tội phạm đã được tuyên trong bản án, quyết định của tòa án nước chuyển giao.
Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quy định chi tiết Điều này.
* Với 429/430 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 90,51% tổng số đại biểu, Quốc hội đã thông qua Luật Tương trợ tư pháp về dân sự.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Tương trợ tư pháp về hình sự. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Luật Tương trợ tư pháp về dân sự gồm 4 chương, 38 điều; quy định nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp về dân sự.
Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp về dân sự trong phạm vi cả nước; hằng năm báo cáo Quốc hội về công tác tương trợ tư pháp về dân sự.
Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp về dân sự, giúp Chính phủ xây dựng báo cáo hằng năm trình Quốc hội về công tác tương trợ tư pháp về dân sự.
Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác có liên quan, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp về dân sự theo quy định của Luật này.
Viện Kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tương trợ tư pháp về dân sự theo quy định của Luật này, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân và các luật có liên quan.
Các cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ tương trợ tư pháp về dân sự trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
* Với 426/427 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 89,87% tổng số đại biểu, Quốc hội đã thông qua Luật Tương trợ tư pháp về hình sự.
Luật Tương trợ tư pháp về hình sự gồm 4 chương, 42 điều; quy định nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp về hình sự.
Tương trợ tư pháp về hình sự được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trường hợp Việt Nam và nước ngoài không cùng là thành viên của điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về hình sự thì việc tương trợ tư pháp về hình sự được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tương trợ tư pháp về hình sự.
Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tương trợ tư pháp về hình sự có trách nhiệm làm đầu mối trao đổi thông tin, tiếp nhận, chuyển giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự; từ chối hoặc hoãn thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự theo thẩm quyền; phối hợp với các cơ quan có liên quan xem xét, giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự; đề xuất việc ký kết, gia nhập, thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về hình sự và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật tương trợ tư pháp về hình sự và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Bốn Luật này có hiệu lực từ ngày 1/7/2026.