Làng nghề ươm tơ Cổ Chất, tỉnh Ninh Bình đã hình thành hàng trăm năm được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, trải qua những thăng trầm cùng lịch sử, tưởng như làng nghề đã bị mai một dần, nhưng bằng tâm huyết, trách nhiệm với nghề, những nghệ nhân trong làng đang từng bước khôi phục, tiếp cận thị trường, đưa sản phẩm tơ lụa vươn ra thế giới.
Nhộn nhịp làng nghề
Công đoạn phân loại kén trước khi ươm.
Làng Cổ Chất, xã Ninh Giang nằm cạnh sông Ninh Cơ với những bãi bồi phù sa màu mỡ thuận tiện cho nghề trồng dâu, nuôi tằm. Khi thực dân Pháp xây dựng Nhà máy Sợi Nam Định, làng Cổ Chất từng bước trở thành vùng trồng nguyên liệu chính cung cấp cho nhà máy. Do tơ lụa tại làng Cổ Chất có chất lượng cao, người Pháp đã xây dựng thêm một nhà máy chế biến tại làng để khai thác hết tiềm năng của vùng dâu tằm này.
Ông Dương Duy Lâm, Trưởng thôn Cổ Chất chia sẻ, nghề ươm tơ tại đây đã hình thành từ lâu đời, thời kỳ thịnh vượng cả làng có tới trên 90% số hộ theo nghề, làng nghề đã tạo ra việc làm, thu nhập cao cho người dân. Tuy nhiên, do không cạnh tranh được với các sản phẩm tơ lụa khác trên thị trường, từ khoảng năm 2010 làng nghề phát triển ảm đạm, nhưng khoảng 3 năm trở lại đây chất liệu tơ tằm tự nhiên được thị trường ưa chuộng trở lại, các cơ sở sản xuất tơ tằm lớn trong làng cũng hoạt động nhộn nhịp hơn.
Công đoạn cắt kén.
Dạo quanh một vòng làng Cổ Chất, những tiếng máy móc dệt sợi vang lên liên hồi; bên trong các cơ sở sản xuất, các bà, các chị miệt mài làm việc dưới màn khói bốc nghi ngút từ nồi nước luộc kén, những bàn tay thoăn thoát, điêu luyện từ các nghệ nhân với kinh nghiệm được đúc kết qua nhiều thế hệ đã tạo ra những sợi tơ chất lượng, sợi thanh mảnh, mềm mại nhưng rất bền, dẻo dai mang đậm bản sắc tơ lụa Cổ Chất.
Bà Đoàn Thị Huê, chủ một cơ sở xe tơ có hơn 10 thợ làm nghề chia sẻ, bà gắn bó với nghề đã gần 30 năm qua, từ khi máy móc còn thô sơ làm hoàn toàn thủ công đến nay đã chuyển sang các loại máy móc hiện đại. Từ khi có công nghệ, chất lượng, năng suất cũng tăng cao hơn, giúp giảm bớt chi phí nhân công. Trung bình mỗi tháng cơ sở xuất khoảng 1 tấn tơ thô đi các thị trường các nước Lào, Thái Lan với giá từ 900 - 1,4 triệu đồng/kg.
Gia đình bà Nguyễn Thị Yến cũng là một trong những hộ gắn bó với nghề se tơ theo kiểu cha truyền con nối tại làng nghề Cổ Chất, để thính ứng với cơ chế thị trường, những năm gần đây ngoài duy trì thường xuyên từ 2 - 3 bếp với công suất trên 50kg kén/bếp/ngày để làm tơ thì gia đình đã chuyển sang làm thêm công việc cắt kén lấy nhộng để bán cho các nhà hàng, tạo việc làm cho khoảng 20 lao động địa phương.
Người thợ đánh đảo kén, đánh mối và tỉa sợi tơ.
Bà Nguyễn Thị Yến cho biết, khoảng 3 năm trở lại đây nhận thấy thị trường ưa chuộng con nhộng để làm món ăn và thuốc, gia đình làm thêm nghề cắt kén lấy nhộng, việc duy trì cả nghề ươm tơ và bán nhộng giúp người dân có thêm thu nhập khi thị trường thay đổi. Đây cũng là cách để các gia đình, cơ sở sản xuất duy trì nghề truyền thống của cha ông để lại.
Xây dựng thương hiệu tơ lụa Cổ Chất
Do vùng trồng dâu ngày càng bị thu hẹp, sự cạnh tranh gay gắt từ các phẩm tơ tằm khác trên thị trường, giá công lao động thấp nên nhiều hộ dân trong làng buộc phải chuyển sang các nghề khác. Để góp phần gìn giữ và phát triển nghề tơ lụa truyền thống, năm 2021 các nghệ nhân trong làng đã thành lập Hợp tác xã Lụa Cổ Chất, sau đó không ngừng tìm tòi, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất để tạo ra các sản phẩm tơ lụa cao cấp.
Công đoạn se tơ.
Bà Trần Thị Ngọc, thành viên Hợp tác xã Lụa Cổ Chất cho biết, nếu cứ theo tư duy lối mòn làm việc thủ công thì sản phẩm sẽ lỗi thời, năng suất thấp, không thể cạnh tranh được. Việc đầu tư công nghệ vào sản xuất sẽ tạo ra giá trị cao hơn, sản phẩm tinh tế, đẹp hơn giúp thu hút được nhiều khách hàng. Năm 2022, sản phẩm vải tơ tằm thủ công truyền thống Chất Silk của hợp tác xã được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn OCOP 4 sao tạo ra cú huých mạnh mẽ, tạo đà cho sản phẩm tiếp cận đông đảo đối tượng khách hàng.
Để xây dựng thương hiệu lụa Cổ Chất, ngoài đầu tư máy móc, nâng cao chất lượng sản phẩm, Hợp tác xã Lụa Cổ Chất còn chú trọng quảng bá sản phẩm trên các nền tảng mạng xã hội như: thành lập Website, Facebook, Youtobe, Tiktok cũng như tăng cường bán sản phẩm qua các sàn thương mại điện tử. Bên cạnh các sản phẩm sợi tơ thô được xuất bán đi thị trường nước ngoài, hợp tác xã còn chú trọng đến các sản phẩm may mặc thời trang từ tơ tằm tự nhiên.
Bà Đoàn Thị Huê, chủ xưởng se tơ lớn tại thôn Cổ Chất sắp xếp các cuộn tơ để gửi cho các đầu mối.
Theo bà Phạm Thị Minh Hải, Giám đốc Hợp tác xã Lụa Cổ Chất, xu hướng của người tiêu dùng ngày nay càng ưa chuộng các sản phẩm vải, lụa có nguồn gốc tự nhiên, do đó hợp tác xã không ngừng đổi mới, sáng tạo ra nhiều sản phẩm như: quần áo, ga, gối, chăn… được làm 100% tơ tằm tự nhiên để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng hiện đại.
Sau hợp nhất, quy mô hành chính lớn hơn, làng nghề được kết nối với mạng lưới phân phối và thị trường tiêu thụ rộng hơn, được hỗ trợ đưa sản phẩm ra hội chợ, triển lãm để nâng tầm thương hiệu. Để bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề truyền thống, giúp người dân yên tâm gắn bó với nghề, chính quyền địa phương lên kế hoạch tăng cường quảng bá sản phẩm; nghiên cứu kết nối kết nối tour du lịch văn hóa với chùa Keo Hành Thiện, Phủ Dầy, làng nghề đúc đồng Tống Xá, chợ Viềng... tạo tuyến du lịch văn hóa- tâm linh- làng nghề.
Một xưởng xe tơ thủ công tại làng nghề ươm tơ Cổ Chất,xã Ninh Giang (Ninh Bình).
Ông Nguyễn Hồng Sơn, Phó Chủ tịch UBND xã Ninh Giang cho biết, xác định phát triển làng nghề là một trong những nhiệm vụ để phát triển kinh tế, địa phương sẽ quy hoạch làng nghề, duy trì diện tích trồng dâu, khuyến khích nông dân quay lại với cây dâu - con tằm. Đồng thời có kế hoạch tu sửa, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng như đường giao thông, bãi gửi xe… để phát triển du lịch làng nghề, qua đó giúp người dân có thêm nguồn thu, tạo động lực để tiếp tục bảo tồn và phát triển nghề truyền thống.