11:17 21/11/2025

Số hóa để hồ chứa nước chủ động ứng phó mưa lũ bất thường

Chiều 21/11, tại Hà Nội, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phối hợp Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước”.

Chú thích ảnh
Hồ Cánh Tạng sẽ điều tiết nguồn nước để cấp nước tưới cho khoảng 6.460 ha đất canh tác của 13 xã thuộc hai huyện Lạc Sơn và Yên Thủy, tỉnh Phú Thọ (tỉnh Hòa Bình cũ). Ảnh minh họa: Trọng Đạt/TTXVN

Sự kiện quy tụ các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp và chính quyền địa phương nhằm chia sẻ kinh nghiệm, định hướng lộ trình chuyển đổi số với ba mục tiêu: bảo đảm an toàn công trình trước thời tiết cực đoan, cắt giảm lũ hiệu quả cho hạ du và nâng cao khả năng cấp nước đa mục tiêu.

Hiện cả nước có 7.315 đập, hồ chứa thủy lợi với tổng dung tích khoảng 15 tỷ m³, đảm bảo tưới cho 1,1 triệu ha và cấp 1,5 tỷ m³ nước cho sinh hoạt, công nghiệp. Tuy nhiên, theo ông Phan Tiến An - Trưởng phòng An toàn đập và Hồ chứa nước, mức độ ứng dụng công nghệ trong quản lý còn thấp, nhất là ở nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Nhiều yêu cầu bắt buộc chưa được thực hiện đầy đủ: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn, 31% có quy trình vận hành và chỉ 11% cắm mốc phạm vi bảo vệ. Dữ liệu kỹ thuật của phần lớn hồ chứa chưa đầy đủ, phân tán; quy chế phối hợp vận hành liên hồ vẫn thiếu thống nhất.

Một số địa phương đã xây dựng phần mềm quản lý dữ liệu phòng chống thiên tai tích hợp hồ chứa, song chưa kết nối với cơ sở dữ liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường và chưa cập nhật thông tin hạ du. Khoảng 100 hồ lớn có cửa van đã lắp thiết bị quan trắc mưa tự động, nhưng hệ thống chưa được chuẩn hóa, thiếu bảo trì, thường xuyên lỗi số liệu.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu gây mưa lũ cực đoan và quá trình đô thị hóa làm giảm không gian thoát lũ, yêu cầu vận hành hồ để bảo đảm an toàn hạ du ngày càng cấp thiết. Tuy vậy, hiện nay, chưa có quy chế phối hợp thống nhất giữa các địa phương trong cùng lưu vực. Mỗi hồ vận hành theo quy trình riêng, trong khi chưa có cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm điều phối chung khi xảy ra tình huống khẩn cấp. Sự phối hợp giữa các nhóm đơn vị vận hành liên hồ chứa (hồ thủy điện và hồ thủy lợi) chưa thực sự đồng bộ. Việc chia sẻ dữ liệu giữa hồ thủy điện và hồ thủy lợi còn hạn chế; chưa có một nền tảng điều hành và giám sát tập trung dùng chung cho toàn lưu vực, ông Phan Tiến An cho biết.

Theo ông Phan Tiến An, để chuyển sang quản lý thông minh cần hoàn thiện thể chế, tiêu chuẩn dữ liệu và quan trắc thời gian thực; nâng cấp cơ sở dữ liệu đập, hồ chứa theo hướng đồng bộ - tích hợp; lắp đặt đầy đủ thiết bị quan trắc và hệ thống cảnh báo lũ đa kênh; đồng thời đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực số. Ngành thủy lợi cũng sẽ đẩy mạnh ứng dụng AI, IoT, Big Data và hệ thống hỗ trợ ra quyết định trên một nền tảng số thống nhất.

TS. Nguyễn Văn Mạnh (Viện Quy hoạch Thủy lợi) cho biết, các mô hình dự báo hiện có đang phục vụ cảnh báo lũ và đề xuất phương án vận hành cho nhiều hồ lớn, song chất lượng dự báo vẫn phụ thuộc vào dữ liệu mưa và công nghệ còn lạc hậu, cần sớm được nâng cấp. 

GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam đánh giá, Việt Nam đã quan tâm xây dựng Hệ thống hỗ trợ vận hành (DSS) và thực tế cho thấy công cụ này hỗ trợ hiệu quả trong vận hành hồ chứa, liên hồ chứa và phòng chống thiên tai. Nhưng trước yêu cầu ngày càng lớn về an toàn đập, an toàn hạ du và tối ưu khai thác nước trong bối cảnh cực đoan khí hậu, Việt Nam cần một hệ thống hỗ trợ vận hành thông minh hơn, hiện đại hơn, đủ khả năng đáp ứng những thách thức mới của quản lý tài nguyên nước.

Bích Hồng (TTXVN)