09:06 16/09/2014

Rà soát các phụ phí tại cảng biển

Lợi dụng sự non kém trong đàm phán, ký kết hợp đồng, chủ tàu nước ngoài đã lạm thu rất nhiều loại phụ phí ngoài hợp đồng, điển hình như vụ việc xảy ra tại cảng Cát Lái. Phóng viên TTXVN đã phỏng vấn ông Nguyễn Nhật, Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam về vấn đề này.

 

Lợi dụng sự non kém trong đàm phán, ký kết hợp đồng, chủ tàu nước ngoài đã lạm thu rất nhiều loại phụ phí ngoài hợp đồng, điển hình như vụ việc xảy ra tại cảng Cát Lái. Phóng viên TTXVN đã phỏng vấn ông Nguyễn Nhật (ảnh), Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam về vấn đề này.

Nhiều ý kiến cho rằng, việc thu phụ phí quá lớn đã gây khó khăn cho chủ hàng và giảm tính cạnh tranh của hàng xuất nhập khẩu Việt Nam. Ông đánh giá như thế nào về ý kiến này?


Theo thống kê có khoảng 10 loại phụ phí đang được các chủ tàu nước ngoài áp dụng thu đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam, như: phí dịch vụ container THC, phí mất cân đối container (CIC hoặc CIS), phí tắc nghẽn cảng (PCS), phí vệ sinh container, phí sửa chữa vỏ container, phí lưu kho bãi… Giá các loại phụ phí cũng tăng theo thời gian, bình quân mỗi năm tăng từ 20% so với năm trước.


Việc thu quá nhiều các loại phụ phí gây khó khăn rất lớn đối với chủ hàng, làm tăng giá thành sản phẩm dẫn đến giảm tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.


Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2013 đạt 264,26 tỷ USD, với mức chi phí cho phụ phí như vậy sẽ gây thất thoát rất lớn cho nền kinh tế nói chung và lĩnh vực xuất nhập khẩu nói riêng.

 

Tàu cập cảng Cái Mép bốc dỡ hàng hóa. Ảnh: Hà Thái - TTXVN

Nhiều doanh nghiệp cho rằng, phí tắc nghẽn chỉ thu khi tình trạng hàng hóa bị ùn ứ cục bộ và chỉ là một giải pháp tạm thời để giải phóng nhanh hàng hóa. Vậy tại sao một số hãng tàu hoặc đại lý hãng tàu vẫn áp dụng thu phụ phí tắc nghẽn, thưa ông?


Đội tàu biển Việt Nam hiện nay mới chỉ đảm nhận được 12% thị phần hàng hóa xuất nhập khẩu, chủ yếu chạy tuyến biển gần. Vận tải hàng hóa container chỉ trong các nước khu vực Đông Nam Á, chưa có tuyến vận tải chạy thẳng sang khu vực châu Âu, châu Mỹ mà đây lại là thị trường xuất nhập khẩu rất lớn của nước ta.

Hiện Việt Nam chưa có quy định quy chuẩn đối với hiện tượng ùn tắc tại cảng và việc quản lý mức thu, thời gian thu cũng chưa có quy định rõ ràng dẫn đến việc chủ tàu lợi dụng thu thêm phí tắc nghẽn ngay cả khi hiện tượng ùn tắc đã chấm dứt. Thời gian vừa qua, tại Cảng Cát Lái xảy ra hiện tượng ùn tắc hàng hóa, nhưng khi hiện tượng này đã chấm dứt các hãng tàu vẫn tiếp tục thu phí nên gây rất nhiều bức xúc.


Để giải quyết vấn đề này, Cục Hàng hải Việt Nam đã có văn bản yêu cầu các doanh nghiệp dừng việc thu phụ phí tắc nghẽn tại đây; cùng với đó, yêu cầu các chủ tàu bỏ “phí kẹt cảng”. Đến nay tất cả chủ tàu đã ngừng thu phí tắc nghẽn tại Cảng Cát Lái. Toàn bộ 40 hãng tàu nước ngoài đã đồng thuận với Cục Hàng hải Việt Nam dừng thu “phí kẹt cảng”.


Hiện nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho phép thí điểm áp dụng áp giá sàn (46 USD/1 container 20 feet) tại khu vực cảng biển nước sâu Cái Mép - Thị Vải trong thời gian 2 năm. Trên cơ sở tổng kết áp dụng ban đầu tại Cái Mép -Thị Vải, sẽ kiến nghị Chính phủ báo cáo Quốc hội cho phép áp dụng trong cả nước.


Do năng lực đội tàu trong nước còn hạn chế nên các chủ hàng nước ngoài thường “ép” các doanh nghiệp Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần có giải pháp gì, thưa ông?


Thực chất, các loại phí này nằm trong giá cước vận tải nhưng các hãng tàu hạ giá cước để giành hợp đồng vận tải bên ngoài Việt Nam và tăng thu phụ phí của chủ hàng Việt Nam để bù lại. Ngoài ra, khi ký kết hợp đồng có một số điều khoản phát sinh thêm chi phí. Khi đó đối tác nước ngoài thường đẩy rủi ro về phía chủ hàng Việt Nam và để lấy được hàng, chủ hàng đã phải chấp nhận trả các loại phí này.


Để cải thiện vấn đề này, giải pháp trước mắt là bản thân doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các hiệp hội ngành hàng phải liên kết với nhau; nâng cao khả năng đàm phán ký kết hợp đồng. Về phía cơ quan quản lý nhà nước, Cục Hàng hải Việt Nam đang phối hợp với một số cơ quan tiến hành rà soát việc thu các loại phụ phí, so sánh với quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Đồng thời báo cáo Bộ Giao thông Vận tải yêu cầu chủ tàu nước ngoài ngừng thu ngay một số loại phí không hợp lý và kiến nghị Chính phủ ban hành quy chế quản lý giám sát việc thu phụ phí chặt chẽ.


Về giải pháp lâu dài, chúng ta phải từng bước nâng cao năng lực, thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu của đội tàu biển Việt Nam để giảm dần phụ thuộc hàng hóa xuất nhập khẩu vào hãng tàu biển nước ngoài.


Xin cảm ơn ông!


Quang Toàn (thực hiện)