09:09 17/09/2011

Quên lãng Hải Vân Quan

Là một Di tích Lịch sử Văn hóa đã được công nhận nhưng Hải Vân Quan lại có một “số phận” hẩm hiu, nhất là kể từ khi khai thông hầm đèo Hải Vân...

Là một Di tích Lịch sử Văn hóa đã được công nhận nhưng Hải Vân Quan lại có một “số phận” hẩm hiu, nhất là kể từ khi khai thông hầm đèo Hải Vân. Sự hoang vắng giữa chốn sương mờ ảo, sự ứng xử chưa đúng mức của con người và sự bào mòn của thiên nhiên đã làm Hải Vân Quan bị biến dạng. Di tích này đang bị lãng quên…

Dấu xưa huy hoàng

Sử sách chép rằng, năm Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng thứ 7 đã cho xây đắp cửa Hải Vân ở đỉnh núi Hải Vân trong cảnh núi đèo hoang vu của những “chúa sơn lâm” còn ngự trị. Trước đó, khi thân chinh đi đánh Chiêm Thành (1470), lúc đi ngang qua đèo Hải Vân, vua Lê Thánh Tông thấy cảnh đẹp và địa hình núi non hiểm trở nên đã đặt cho nơi đây là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Về sau, trải qua nhiều đời vua, chúa của triều Nguyễn và thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hải Vân Quan vẫn luôn được xem trọng với vị trí chiến lược về chính trị, an ninh và quốc phòng.

Trạm gác Hải Vân Quan đã bị bỏ hoang hàng chục năm qua.


Dấu tích xưa của Hải Vân Quan vẫn được lưu lại trong các thư tịch cổ nước nhà. Biết bao tấm gương của tổ tiên người Việt đã băng rừng, trèo đèo, lội suối với bao hiểm nguy để dựng xây nên một vùng đất phương Nam màu mỡ và trù phú như ngày hôm nay. Tên tuổi của Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Tri Phương,… vẫn được người đời sau hết lời ca tụng.

Theo Đại Nam thực lục chính biên của Quốc sử quán Triều Nguyễn ghi lại: “Phía trước, phía sau đều đặt một cửa quan. Ngạch trước viết ba chữ “Hải Vân Quan”. Ngạch sau viết 6 chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Phía tả hữu cửa quan, người ta xếp đá làm tường, trước sau tiếp nhau. Hải Vân Quan vừa trở thành trạm trung chuyển, điểm dừng chân, trên con đường thiên lý Bắc-Nam; là đất yết hầu, là vùng cửa ngõ của nước Đại Nam khi ấy; và đồng thời trở thành địa giới giữa Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng bây giờ.

Cổng Hải Vân Quan đứng “đơn côi” trước sự lãng quên của con người.


Không những thế, Hải Vân Quan còn nằm trên một địa thế khá lý tưởng. Địa hình cheo leo, khúc khuỷu (cao 496m). Khí hậu mát mẻ quanh năm. Đó là chốn “thiên cảnh bồng lai”, nằm giữa hai bãi biển đẹp (Lăng Cô và Nam Ô), từng làm lay động tâm hồn của biết bao con người: Một bên là núi với sương trắng bao phủ quanh năm; và một bên là biển hiền hòa soi mình trong ánh nắng vàng của biển. Từ trên Hải Vân Quan, nhìn về hai phía, du khách sẽ chiêm ngưỡng cảnh sắc trời mây kỳ vĩ của thiên nhiên ban tặng với những chứng tích của nhiều thời kỳ lịch sử huy hoàng, là niềm tự hào về quá khứ vàng son của khúc ca khải hoàn “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”.

Chạnh lòng trước “số phận”!

Dấu xưa hoành tráng và huy hoàng là vậy! Con đường thiên lý Bắc Nam quanh co, trắc trở là thế! Nhưng cũng có lúc bị con người chưa đúng mức. “Có mới, nới cũ”, câu ca tưởng chừng xa vời lại có giá trị, nhất là đối với Hải Vân Quan hôm nay. Kể từ khi hầm đèo Hải Vân, công trình thế kỷ XXI, được thông xe (năm 2000), Hải Vân Quan càng vắng vẻ. Nếu có người ghé lại thì cũng chỉ là sự hồi tưởng về một thời lửa đạn của những người lính năm xưa. Hơn 10 năm trôi qua, mặc dù đã được xếp hạng là một Di tích Lịch sử Văn hóa cấp thành phố, song Di tích không được trùng tu, tôn tạo dù chỉ là một viên gạch, thanh đà chống đỡ.

Bảng chỉ dẫn trên Hải Vân Quan bị gỉ sắt, nhòe nhoẹt cùng thời gian.


Rất tình cờ, khi chúng tôi thực hiện chuyến du lịch bằng xe máy về với Hải Vân Quan vào những ngày cuối tháng 8. Đường lên Hải Vân Quan (hay đèo Hải Vân) khá vắng vẻ, chủ yếu là những xe gắn máy của những nam thanh nữ tú muốn thử thách cùng núi non, thỉnh thoảng cũng có vài chiếc xe ô tô loại 4-6 chỗ ngồi. Vừa chạm chân xuống đất để đỗ xe, biết bao tiếng mời mọc mua hàng bát nháo. Tuy là khúc cua nguy hiểm của đỉnh đèo nhưng các hàng quán vẫn ngang nhiên cho khách du lịch đỗ xe bất chấp luật lệ. Men theo con đường nhỏ dốc và lởm chởm đá để lên cổng Hải Vân Quan. Cổng vòm cao bám đầy rêu xanh mang dấu ấn thời gian. Cổng Hải Vân giờ chẳng còn người qua lại nhiều, cũng chẳng còn người đứng gác hay bảo vệ. Quang cảnh đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là nham nhở dây leo, cỏ cây hoang dại xen lẫn trong những hầm hố, bám níu trên cổng thành. Chưa hết, dấu tích thời gian của sáu chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” vang danh một thời cũng dần mờ theo năm tháng.

Lên đến Hải Vân Quan, thỏa sức nhìn cảnh trời mây, chúng tôi còn được nhìn thấy nhiều lô cốt sụp bể, nắp nằm nghiêng ngả, không còn nguyên vẹn. Gần các lô cốt này là những lỗ châu mai bu bám nhiều cỏ lau, cây hoang dại. Trông xa, khó có ai có thể đoán ra đó là lỗ châu mai. Lân la cùng đoàn cựu chiến bình viếng thăm Hải Vân Quan chúng tôi được biết thêm về gốc tích. Một cựu chiến binh đến từ Thái Bình cho biết, những lô cốt này được người Pháp xây dựng vì mục đích quân sự với nhiều hình dạng, quay về các hướng khác nhau kiểm soát tuyến đường huyết mạch nối liền đất nước, quốc lộ 1A, một chứng cứ lịch sử nhưng giờ chỉ còn như vậy! (Nói xong, vị cựu chiến binh ấy lắc đầu). Nằm liền kề là một ngôi nhà, vốn xưa kia là trụ sở của những người trông coi Hải Vân Quan, giờ cũng bị bỏ hoang, không ai còn nhớ và đến ở.

Rời Hải Vân Quan, chúng tôi cảm thấy chạnh lòng trước sự hoang phế của “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Nhìn cổng Hải Vân Quan cùng với những lô cốt, lỗ châu mai đang “gồng mình” để chống chọi với sức tàn phá của thiên nhiên chợt thấy… xót xa. Hải Vân Quan đang rất tha thiết nhận được sự đối xử bình đẳng như bao di tích khác để Hải Vân Quan vẫn mãi mãi là niềm kiêu hãnh của những người đi mở cõi.

Dương Văn Út