12:12 29/12/2025

Quản lý phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

Diễn đàn khoa học năm 2025 phân tích thực trạng chuyển đổi số tại Việt Nam, chỉ rõ cơ hội, thách thức và đề xuất các nhóm giải pháp chính sách nâng cao chất lượng quản lý phát triển kinh tế xã hội trong kỷ nguyên số.

Ngày 29/12 tại Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức Diễn đàn khoa học năm 2025 với chủ đề “Quản lý phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số”.

Cơ hội hiện thức hoá khát vọng phát triển

Phát biểu khai mạc diễn đàn, GS.TS. Lê Văn Lợi, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhấn mạnh, Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự bùng nổ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật và điện toán đám mây không chỉ làm thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh, mà còn tái định hình toàn bộ cấu trúc xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên.

Chú thích ảnh
Diễn đàn khoa học năm 2025 với chủ đề “Quản lý phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số”.

Đối với Việt Nam, đây vừa là cơ hội vàng để hiện thực hóa khát vọng phát triển, vừa là thách thức lớn nếu không kịp thời nắm bắt và định hướng đúng. Chuyển đổi số không còn là lựa chọn mà đã trở thành mệnh lệnh tất yếu để tồn tại và phát triển trong thế kỷ XXI.

Chuyển đổi số đã được Đảng và Nhà nước xác định là một trong ba đột phá chiến lược quan trọng hàng đầu, là yếu tố quyết định để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Xây dựng Chính phủ số, Kinh tế số và Xã hội số không đơn thuần là ứng dụng công nghệ, mà là quá trình tái cấu trúc toàn diện, đòi hỏi đổi mới căn bản về tư duy lãnh đạo, thể chế, phương thức tổ chức và mô hình quản trị.

Diễn đàn được tổ chức nhằm đóng góp đánh giá khoa học và tham mưu chính sách cho Chính phủ trong triển khai “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” theo Quyết định số 749/QĐ-TTg.

Với tầm nhìn chiến lược, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận thức rõ vai trò của chuyển đổi số. Nghị quyết 52-NQ/TW năm 2019 của Bộ Chính trị đặt nền móng cho tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Tiếp đó, Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số, xã hội số và Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đã cụ thể hóa định hướng thành các kế hoạch hành động.

Đặc biệt, Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia khẳng định rõ: chuyển đổi số là một trong ba đột phá chiến lược quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất và đổi mới phương thức quản trị quốc gia. Đây được xác định là “cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực”.

Theo GS.TS. Lê Văn Lợi, qua phân tích các tham luận gửi tới diễn đàn, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong quá trình chuyển đổi số.

Về Chính phủ số, Việt Nam xếp hạng 71/193 quốc gia về Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI) năm 2024, tăng 15 bậc so với năm trước và lần đầu tiên được xếp vào nhóm “rất cao” toàn cầu. Hiện khoảng 70% dịch vụ công được cung cấp ở mức độ 4; hệ thống định danh và xác thực điện tử quốc gia VNeID có hơn 50 triệu tài khoản, tạo nền tảng quan trọng cho chính phủ số.

Về Kinh tế số, đây là điểm sáng nổi bật khi trở thành động lực tăng trưởng mới. Năm 2024, kinh tế số ước đóng góp 18,3–18,6% GDP, tăng trưởng trên 20%/năm, cao gấp ba lần tốc độ tăng GDP chung. Thương mại điện tử đạt quy mô khoảng 20,5 tỷ USD. Các tập đoàn công nghệ trong nước như FPT, VNPT, Viettel, VNG có nhiều sản phẩm, giải pháp có khả năng cạnh tranh quốc tế.

Về Xã hội số, tỷ lệ dân số sử dụng Internet đạt trên 77%, với hơn 70 triệu người dùng mạng xã hội. Giáo dục số, y tế số có bước tiến rõ nét; 100% cơ sở y tế đã chấp nhận căn cước công dân gắn chip hoặc VNeID trong khám chữa bệnh, góp phần giảm thủ tục hành chính.

“Thành công của chúng ta phụ thuộc vào khả năng phối hợp đồng bộ giữa ba trụ cột: Chính phủ số - Kinh tế số - Xã hội số. Thước đo thành công không chỉ là tốc độ số hóa mà còn là chất lượng tăng trưởng, mức độ công bằng xã hội và khả năng thích ứng với những biến đổi của thời đại”, GS.TS. Lê Văn Lợi nhận định.

Kiến nghị 6 giải pháp

Các đại biểu thống nhất rằng, theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW và Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, chuyển đổi số không còn là lựa chọn mà là con đường tất yếu để Việt Nam đạt các mục tiêu phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn 2045.

Chú thích ảnh
Các đại biểu, chuyên gia tham dự diễn đàn.

Các báo cáo tham luận và các ý kiến phát biểu, trao đổi tại diễn đàn có chung nhận định rằng Việt Nam đã xác lập chuyển đổi số là một trong ba trụ cột chiến lược, đồng thời có nền tảng hạ tầng cơ bản đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn phân mảnh và thiếu đồng bộ. Các chuyên gia tại diễn đàn đã chỉ rõ những thách thức lớn đối với Việt Nam, gồm:

Thứ nhất, khung khổ chính sách, pháp luật dù được gấp rút điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện nhưng chưa theo kịp tốc độ biến đổi của xã hội số, đặc biệt trong các lĩnh vực mới như trí tuệ nhân tạo (AI) và tài sản số.

Thứ hai, cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành còn thiếu tính liên thông và chia sẻ, đã và đang tạo ra những “bức tường vô hình”, gây lãng phí nguồn lực xã hội.

Thứ ba, khoảng cách về kỹ năng số còn lớn, tiềm ẩn nguy cơ gia tăng bất bình đẳng về cơ hội đối với các nhóm lao động dễ bị tổn thương.

Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn trong nước, diễn đàn đề xuất Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam kiến nghị Chính phủ sáu nhóm giải pháp trọng tâm:

Một là, nhất quán chiến lược, xác định chuyển đổi số là trục xuyên suốt của phát triển kinh tế - xã hội, không mang tính nhiệm kỳ.

Hai là, đổi mới tư duy thể chế, chuyển sang quản lý rủi ro dựa trên dữ liệu và mở rộng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (regulatory sandbox).

Ba là, xây dựng chiến lược dữ liệu quốc gia, coi dữ liệu là hạ tầng kinh tế - xã hội cốt lõi, với mức độ ưu tiên đầu tư tương đương hạ tầng giao thông chiến lược.

Bốn là, triển khai “bình dân học vụ kỹ năng số”, tập trung đào tạo lại và nâng cao kỹ năng số cho toàn dân, ưu tiên các nhóm yếu thế.

Năm là, hỗ trợ doanh nghiệp theo chuỗi và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, thay vì hỗ trợ đơn lẻ.

Sáu là, hướng tới mô hình quản trị đa tác nhân, trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, doanh nghiệp cung cấp giải pháp và người dân là trung tâm đồng sáng tạo chính sách.

XM/Báo Tin tức và Dân tộc