01:11 19/01/2012

Quản lý chặt chẽ hơn việc khai thác khoáng sản

Sau gần 15 năm thực thi Luật Khoáng sản, ngành khai khoáng của Việt Nam đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, ngành này cũng bộc lộ không ít những yếu kém, hạn chế, khiến nguồn tài nguyên khoáng sản cạn kiệt, thất thoát...

Sau gần 15 năm thực thi Luật Khoáng sản, ngành khai khoáng của Việt Nam đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế .
Tuy nhiên, ngành này cũng bộc lộ không ít những yếu kém, hạn chế, khiến nguồn tài nguyên khoáng sản cạn kiệt, thất thoát, người dân mất đất sản xuất, ngân sách nhà nước thất thu, môi trường thì bị xâm hại nghiêm trọng.

Hệ lụy từ khai thác khoáng sản tràn lan

Khai thác khoáng sản bừa bãi không theo quy hoạch trong thời gian qua đã khiến cho đất nước ta bị hủy hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên, mặt khác nó cũng góp phần gia tăng mức độ ô nhiễm môi trường. Nhận thức rõ những vấn đề bất cập của lĩnh vực này, cuối năm 2011, Chính phủ đã yêu cầu các cơ quan chức năng tạm dừng việc cấp phép thăm dò và khai thác khoáng sản trên phạm vi cả nước.

Cấp phép khai thác quá nhiều

Sở hữu trên 5.000 điểm mỏ với hơn 60 loại khoáng sản khác nhau nên thật không khó lí giải vì sao ngành khai khoáng tại Việt Nam lại phát triển nhanh tới vậy. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này tăng trung bình hơn 21%/năm, đồng nghĩa với việc tăng nhanh lượng giấy phép được cấp.

Khai thác đá trái phép ở phía đông núi Hòn Chà, thuộc phường Trần Quang Diệu ( TP Quy Nhơn ). Ảnh: Viết Ý – TTXVN

Theo con số khảo sát của Viện Tư vấn và phát triển (CODE) (thuộc Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam), chỉ trong vòng 3 năm từ 2005 đến 2008, các địa phương đã cấp hơn 3.880 giấy phép khai thác khoáng sản, nhiều gấp 10 lần so với số lượng giấy phép mà các bộ cấp trong 12 năm từ 1996 đến 2008. Điều đáng ngại là hoạt động cấp phép không theo quy hoạch, cấp phép vượt quy hoạch và chồng chéo quy hoạch vẫn diễn ra ở nhiều nơi trong khi đội ngũ và năng lực các cơ quan chuyên môn lại có hạn nên việc quản lí hoạt động khai khoáng trở nên khó kiểm soát. Đó là chưa kể tới thực trạng nhiều doanh nghiệp tuy không đủ năng lực, không có hồ sơ thiết kế mỏ, không làm báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc nếu có cũng chỉ là chiếu lệ… nhưng vẫn được cấp phép. Thậm chí không ít mỏ khoáng sản có trữ lượng lớn đã bị xé lẻ để tiện bề cho việc cấp phép ở địa phương. Không ít các địa phương cấp phép trên các diện tích chưa có báo cáo kết quả thăm dò và trữ lượng được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc chưa có ý kiến thỏa thuận giữa các bộ, ngành liên quan theo quy định. Những bất cập trên, theo CODE chính là các yếu tố góp phần làm cho tổn thất tài nguyên trong khai thác rất cao, đặc biệt là ở các mỏ hầm lò, các mỏ do địa phương quản lý.

Cũng theo CODE, việc cấp phép tràn lan như trên sẽ gây ra nhiều hệ lụy, trong đó có việc bị mất mỏ. Dẫn kết quả một số cuộc điều tra, CODE cho biết, tổn thất khai thác than hầm lò lên tới 40 - 60%, khai thác apatit là 26 - 43%, quặng kim loại 15 - 30%, vật liệu xây dựng từ 15 - 20%... Đối với các mỏ vừa và nhỏ, sự thất thoát không chỉ dừng lại ở một vài chục phần trăm mà nguy cơ mất mỏ là rất nghiêm trọng. Do năng lực có hạn, khai thác phần lớn là thủ công nên phần lớn các mỏ này chỉ lấy được những phần giàu nhất, bỏ đi toàn bộ quặng nghèo và các sản phẩm đi cùng, dẫn đến không thể tận thu được. Điều này dễ thấy nhất trong khai thác vàng, khi mà độ thu hồi quặng vàng hiện chỉ đạt khoảng 30 - 40%, số còn lại thải ra bãi thải, vừa lãng phí vừa gây ô nhiễm môi trường.

Lãng phí tài nguyên, ngân sách thất thu

Sự lãng phí tài nguyên trong hoạt động khai thác cộng với sự yếu kém trong công tác quản lí cùng những kẽ hở trong cơ chế giám sát là lý do khiến nguồn ngân sách nhà nước bị thất thu.

Trong khi tổng vốn đầu tư cho ngành khai thác khoáng sản chiếm vị trí cao so với nhiều ngành và lĩnh vực kinh tế thì hiệu quả đóng góp vào tăng trưởng GDP của ngành này lại chưa tương xứng. Bằng chứng là trong giai đoạn từ 2005 đến 2008, tổng vốn đầu tư cho ngành khai thác đứng vị trí thứ 5/18 ngành và lĩnh vực nhưng hiệu quả đóng góp cho nền kinh tế chỉ đứng thứ 8.

Hiện nay, nguồn thu trực tiếp từ việc khai khoáng vẫn dựa chủ yếu vào thuế tài nguyên khoáng sản. Doanh nghiệp tự kê khai sản lượng khoáng sản thực tế khai thác hàng năm và cơ quan chức năng sẽ lấy đó làm cơ sở cho việc tính thuế tài nguyên khoáng sản, ngoại trừ dầu khí có luật riêng. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp báo cáo chưa đúng sản lượng khai thác gây thất thoát nguồn thu ngân sách. Việc duy trì phương thức tính thuế tài nguyên dựa theo hóa đơn xuất của doanh nghiệp cũng có thể dẫn tới tình trạng doanh nghiệp bắt tay với đối tác ghi giá trên hóa đơn thấp hơn so với giá thực tế nhằm trốn thuế và các loại phí liên quan.

Tại Điện Biên, một số doanh nghiệp còn mượn cớ “đang trong thời kì thiết kế mỏ” để trốn nghĩa vụ nộp thuế dù trước đó họ đã tiến hành khai thác từ lâu. Đây cũng là một trong những lí do khiến địa phương này chỉ thu được vỏn vẹn gần 3 tỉ đồng tiền thuế khai thác khoáng sản trong suốt 3 năm (2007 – 2010) dù có tới gần 90 điểm mỏ được cấp phép khai thác đủ các loại khoáng sản từ vàng cốm, vàng sa khoáng đến than, chì, kẽm, sắt, bauxit, antimon, đá vôi, cát sỏi…

Ông Nguyễn Đình Xuân, Phó Giám đốc Vườn Quốc gia Lò Gò – Xa Mát tỉnh Tây Ninh

Chúng ta cần có quy hoạch tổng thể về khai thác khoáng sản ở tầm quốc gia và một chiến lược khai thác khoáng sản dài hạn, có như vậy các địa phương sẽ biết họ được phép khai thác loại khoáng sản gì, với số lượng bao nhiêu, thời hạn được phép khai thác ra sao. Nhà nước giao quyền cho các địa phương khai thác nhưng yêu cầu phải có báo cáo đầy đủ, chi tiết về tính hiệu quả của việc này cũng như những ảnh hưởng về môi trường, dân sinh ở khu vực khai thác. Trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ ra quyết định cho phép khai thác hay không khai thác. Để giải quyết triệt để tình trạng chảy máu tài nguyên, gây thất thu cho ngân sách, Nhà nước cần phải đánh thuế ở mức cao các loại quặng xuất khẩu, đồng thời hạn chế hoặc không cấp phép cho những dự án dạng này.

Ông Nguyễn Văn Thắng, Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bình Định

Việc phân cấp về quản lý khoáng sản theo Luật Khoáng sản còn nhiều kẽ hở, nhiều cơ quan tham gia nhưng thiếu cơ chế phối hợp nên quản lý kém hiệu quả. Tình trạng cấp phép hoạt động không theo quy hoạch, cấp phép tràn lan, chia nhỏ, cấp phép cho các tổ chức cá nhân không đủ năng lực vẫn còn tồn tại. Việc khai thác sản lượng quá lớn, không đủ điều kiện chế biến sâu nên có tình trạng gian lận trong xuất khẩu Titan thô, gây lãng phí tài nguyên. Hầu hết những người có trách nhiệm tại các cơ quan chức năng đều nhìn thấy rõ thực trạng nhưng lúng túng trong xử lý. Theo quan điểm phát triển bền vững, không phải phát triển kinh tế với bất cứ giá nào mà phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường, chính quyền các cấp và các cơ quan chuyên môn. Trên cơ sở quy hoạch thăm dò, khai thác chế biến khoáng sản cần có phương thức lựa chọn các doanh nghiệp có năng lực để cấp phép. Thêm vào đó, cần bảo đảm tính công khai minh bạch để không thất thu trong lĩnh vực này.

Ông Trần Đức Lượng, Phó Chánh Thanh tra Chính phủ

Trong thời gian qua, ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp chưa tốt, việc phát hiện và xử lý chưa nghiêm nên các đơn vị chức năng cần có những giải pháp tăng cường giám sát cộng đồng. Hiện nay, những sai phạm trước năm 2008 đã được các ngành chức năng xử lý và tùy vào từng vụ việc để có thể xử lý về mặt kinh tế cũng như về hình sự.

Môi trường và dân sinh bị ảnh hưởng

Bất cập không chỉ dừng lại ở câu chuyện tổn thất tài nguyên và nguồn thu ngân sách mà hệ lụy từ việc cấp phép khai thác khoáng sản tràn lan cũng khiến nhiều hộ gia đình điêu đứng vì thiếu hoặc mất hẳn đất sản xuất. Phần lớn các mỏ khai thác tại một số địa phương chưa xây dựng bãi thải theo đúng quy định, gây bồi lấp dòng chảy, ruộng vườn; làm thu hẹp diện tích đất lâm nghiệp; gây hỏng cầu cống, đường sá… Một số ít doanh nghiệp tuy thực hiện đền bù hoặc đưa máy móc vào dọn dẹp đất thải nhưng nhiều vướng mắc vẫn chưa ngớt phát sinh, liên quan trực tiếp đến việc bồi thường và cải tạo đất.

Tuy nhiên, hậu quả tiêu cực về môi trường có lẽ vẫn là điều đáng lo ngại nhất bởi sẽ phải mất một nguồn kinh phí vô cùng lớn và trong một thời gian vô cùng dài thì mới mong khắc phục được một phần hậu quả. Không chỉ làm phát sinh các chất thải nguy hiểm, hoạt động khai thác khoáng sản trong nhiều trường hợp còn gây ô nhiễm không khí, nguồn nước; làm mất đa dạng sinh học; tàn phá rừng; sa mạc hóa đất đai; gây bồi lấp, sụt lún, phá vỡ cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử… Càng đáng lo hơn khi hầu hết hoạt động khai thác khoáng sản hiện tập trung chủ yếu ở các vùng núi và trung du khiến phạm vi tác động sâu rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các vùng rừng và diện tích đất rừng xung quanh khu vực khai thác. Không ít những doanh nghiệp còn lợi dụng việc triển khai dự án để thọc sâu vào các khu vực cấm thuộc vườn quốc gia, khu bảo tồn nhằm tìm vàng và sa khoáng, gây bao hệ lụy khôn lường, điển hình là vụ khai thác vàng mới xảy ra tại Vườn quốc gia Ba Vì (Hà Nội); khai thác vàng trong vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát (Nghệ An), Khu Bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ (Bắc Kạn), Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống (Nghệ An); khai thác thạch anh hồng ở Vườn quốc gia Chư Yang Sin (Đắk Lắk)…

Có thể nói, bên cạnh một số doanh nghiệp làm ăn khá nghiêm chỉnh thì còn tồn tại không ít những đơn vị chỉ biết chạy theo lợi nhuận mà bất chấp mọi hệ lụy có thể gây ra đối với môi trường và đời sống dân sinh. Hiện mỗi địa phương vẫn còn tồn tại hàng trăm điểm khai thác tự phát, nhỏ lẻ, khiến môi trường bị hủy hoại, tài nguyên thì cạn kiệt. Rất nhiều bằng chứng cho thấy, nơi nào giàu tài nguyên khoáng sản, nơi đó dễ phát sinh những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường.

Tạm dừng cấp phép khai thác khoáng sản

Thấy rõ việc cấp phép tràn lan khai thác khoáng sản trong thời gian qua tại các địa phương gây nhiều ảnh hưởng đến môi trường, thất thu ngân sách nhà nước vừa qua, Chính phủ đã quyết định tạm dừng cấp phép khai thác khoáng sản với tất cả các cơ quan có thẩm quyền. Chiến lược khoáng sản đến năm 2020 sẽ đặt lợi ích quốc gia làm trọng.

Ông Vũ Đức Đam, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cho biết, thực trạng mỏ được cấp phép khai thác thời gian qua tương đối rộng. Nhiều nơi, hoạt động khai khoáng tràn lan, thiếu quy hoạch, tự phát đã dẫn đến hậu quả ô nhiễm môi trường, phát sinh tệ nạn xã hội. Chính phủ đã chủ trương tạm dừng cấp phép khai thác khoáng sản, cả ở cấp bộ và địa phương. “Tinh thần là Chính phủ sẽ làm rất kiên quyết, chặt chẽ” – ông Đam khẳng định.

Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì soạn thảo dự thảo quyết định phê duyệt chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Văn bản đã được công bố để lấy ý kiến người dân.

Dự thảo chiến lược khẳng định khoáng sản là tài sản quan trọng của quốc gia, phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Việc khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản phải phù hợp với tiềm năng tài nguyên của từng loại khoáng sản và đặt lợi ích quốc gia làm trọng; tăng cường công tác bảo vệ khoáng sản chưa khai thác. Xuất khẩu khoáng sản phải theo nguyên tắc cân đối, đảm bảo nhu cầu sản xuất trong nước và phù hợp với từng thời kỳ.

Ngoài ra, dự thảo cũng đặt mục tiêu hoàn thành công tác lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản (tỉ lệ 1/50.000) đạt 90% lãnh thổ. Đến năm 2020, hoàn thành công tác điều tra địa chất ở khu vực Tây Nguyên và các khu vực giáp biên giới; điều tra địa chất, khoáng sản biển tỉ lệ 1/500.000 trên toàn bộ lãnh hải. Trong phần định hướng chiến lược, dự thảo khẳng định Việt Nam sẽ xây dựng công nghiệp khai thác, chế biến bauxite, tital - zircon, đất hiếm tập trung quy mô lớn, công nghệ hiện đại...

Thành Hiển