08:11 11/08/2025

Phù thủy, người sói và ma cà rồng: Thế giới siêu nhiên trong tư tưởng Đức Quốc xã - Kỳ cuối

Mùa hè năm 1943, Văn phòng Giáo dục Khu vực của Đảng Quốc xã đã xuất bản một tập sách nhỏ với tiêu đề "Der jüdische Vampyr chaotisiert die Welt" (tạm dịch: Người Do Thái ma cà rồng gây hỗn loạn cho thế giới).

Kỳ cuối: Ma cà rồng và người sói

Ma cà rồng

Chú thích ảnh
Một cảnh trong phim Một cảnh trong phim "The Golden Nazi Vampire". Ảnh: elpais.com

Theo trang historyextra.com, là một phần của loạt tuyên truyền về “Người Do Thái là ký sinh trùng thế giới”, tập sách lập luận rằng Chiến tranh Thế giới thứ hai là một cuộc xung đột sinh tồn giữa người Aryan và người Do Thái, những người đã “gieo rắc ma thuật đen chính trị và kinh tế trong suốt ba nghìn năm”. Theo những nội dung tuyên truyền Quốc xã, “bất cứ nơi nào có một vết thương bị rạch ra trên cơ thể của một quốc gia, thì con quỷ Do Thái luôn ăn bám ở chỗ bị bệnh, như một ký sinh trùng mạnh mẽ trong cơn ác mộng”.

Tuyên truyền này không chỉ là lời lẽ sáo rỗng. Các lãnh đạo Quốc xã thực sự coi người Do Thái là những con quái vật siêu nhiên toàn năng, chịu trách nhiệm cho sự tàn phá của Chiến tranh Thế giới thứ hai (cũng như hầu hết mọi tội ác trong suốt lịch sử). Trong Mein Kampf, Hitler đã nhiều lần gọi người Do Thái là “ma cà rồng”, “kẻ hút máu” và “kẻ ăn bám”, nói rằng “bất cứ nơi nào hắn xuất hiện, dân tộc chủ nhà sẽ diệt vong sau một thời gian dài hay ngắn”.

Theo Hitler, người Do Thái không bao giờ trồng trọt hay canh tác đất đai, mà chỉ coi đó là tài sản để bóc lột. Theo hắn ta, qua những “hình thức vơ vét tồi tệ nhất từ chủ mới này”, sự chán ghét đối với người Do Thái sẽ dần tăng lên cho đến khi trở thành thù hận công khai. Sự cai trị hút máu của họ trở nên nặng nề đến mức cuối cùng sẽ dẫn tới những hành động bạo lực chống lại họ.

Hitler giải thích rằng sau cái chết của nạn nhân, ma cà rồng sớm hay muộn cũng chết và đó là lý do vì sao người Do Thái sẽ luôn tìm kiếm những xã hội mới, khỏe mạnh để có thể hút máu trong thời gian dài.

Đối với Hitler, giết chỉ vài “ma cà rồng” Do Thái là hoàn toàn vô nghĩa vì khi đó, sẽ có một vài kẻ hút máu khác nhanh chóng thế chỗ.

Theo hắn ta, giống như ma cà rồng bất tử, người Do Thái cần “mùi thối rữa, mùi xác chết, sự yếu đuối, thiếu sức đề kháng, sự phục tùng cá nhân, bệnh tật, sự thoái hóa! Và bất cứ nơi nào nó bén rễ, nó sẽ tiếp tục quá trình phân hủy!”. Không có gì lạ khi Hitler nhận xét vào tháng 12/1941 rằng: “Kẻ nào hủy diệt sự sống cũng tự đặt mình vào nguy cơ tử vong. Đó là bí mật của những gì đang xảy ra với người Do Thái. Vai trò hủy diệt này của người Do Thái, theo một cách nào đó, có sự giải thích mang tính tiền định”.

Cuộc thảm sát người Do Thái (Holocaust) là một phần của mô hình bạo lực thực dân châu Âu đối với “những chủng tộc khác”, vốn trở nên trầm trọng hơn bởi chiến tranh toàn diện, tình trạng kinh tế khó khăn và làn sóng chống Bônsêvích kịch liệt.

Tuy nhiên, các kế hoạch diệt chủng cụ thể của Đệ tam Đế chế đối với người Do Thái vẫn cực đoan hơn so với những kẻ thực dân châu Âu khác, bởi vì Đức Quốc Xã không chỉ dựa vào Darwin, Kipling hay Kinh Thánh, mà còn dựa vào thế giới tưởng tượng siêu nhiên và ý tưởng của các nhà huyền thuật phân biệt chủng tộc khác.

Chỉ bằng cách gán cho người Do Thái hình ảnh là những kẻ hút máu, gần như siêu nhân, quyết tâm hủy diệt chủng tộc Aryan, Đức Quốc Xã mới có thể tạo nền tảng tư tưởng để sát hại hàng loạt dân thường vô hại theo một cách tàn bạo đến như vậy.

Người sói

Chỉ vài năm sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, nhà sử học Robert Eisler đã có một bài giảng tại Hội Y học Hoàng gia mang tên Man into Wolf: An Anthropological Interpretation of Sadism, Masochism and Lycanthropy (Người hóa thành Sói: Diễn giải Nhân học về Chủ nghĩa Bạo dâm, Khổ dâm và Chứng hóa sói). Eisler mở đầu rằng niềm tin vào chứng hóa sói từng phổ biến khắp nước Đức Cổ đại và Trung cổ.

Niềm tin cho rằng con người có thể biến thành động vật đã được hồi sinh trong Đệ tam Đế chế, nơi mà khái niệm dân gian về người sói được sử dụng rộng rãi.

Theo Hitler, không có gì thú vị hơn khi thấy trong đôi mắt của một thanh niên tàn nhẫn lại một lần nữa ánh lên niềm tự hào và sự độc lập của loài thú săn mồi. Khi những con sói này được tổ chức thành “bầy sói”, Hitler tin rằng họ có thể săn lùng và giết kẻ thù của Đức vào ban đêm. Hitler kêu gọi binh lính của mình “lao vào kẻ thù theo bầy” như sói. Trụ sở của hắn tại Ukraine được gọi là “sào huyệt Người sói” và trụ sở nổi tiếng hơn tại Đông Phổ là Wolfsschanze (Hang Sói).

Các viện nghiên cứu của cả Himmler và nhà tư tưởng Quốc Xã có ảnh hưởng Alfred Rosenberg đã công bố các báo cáo cho rằng “hình tượng người sói xuyên suốt trong truyện cổ tích và cách đặt tên của người Aryan và người Đức” và đây là một trong những đặc tính nguyên thủy của tinh thần chủng tộc Đức.

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Quốc Xã Lutz Mackensen viết rằng không có mối liên hệ nào giữa “người sói và ma cà rồng Slav”. Trong suy nghĩ của Đức Quốc Xã, ma cà rồng (gắn liền với hình ảnh người Do Thái) là xấu xa và thoái hóa về chủng tộc. Ngược lại, người sói thuộc nhóm anh hùng hiếm hoi có khả năng biến thành động vật và không bao giờ “phục vụ cho quỷ dữ”.

Với tư cách là “những con chó của Chúa”, người sói được coi là lực lượng thiện, bảo vệ dân chúng khỏi cái ác và gìn giữ linh hồn họ. Đây là một lập luận từng được một thuộc cấp của Alfred Rosenberg trình bày trong luận án.

Trên thực tế, Đệ tam Đế chế đã tích cực tài trợ tái bản tiểu thuyết Der Wehrwolf (1910) của Hermann Löns, viếtvề một nhóm bảo vệ người Đức chống nước ngoài xâm lược trong Chiến tranh Ba mươi năm. Khi chọn tên cho lực lượng mới nàycủa mình, Hitler, Himmler và Goebbels đã tạo ra một điểm nhấn nhỏ nhưng quan trọng trong cách dùng từ. Tác phẩm Wehrwolf của Löns và phong trào ‘Wehrwolf’ trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến sử dụng từ Wehr, một cách chơi chữ dựa trên từ tiếng Đức có nghĩa là ‘phòng thủ’. Thay vào đó, Hitler và Himmler chọn cách viết mang tính siêu nhiên rõ rệt hơn là Werwolf để đặt tên cho lực lượng bán quân sự riêng, một đội quân tình nguyện được tuyển mộ để hoạt động phía sau phòng tuyến của kẻ thù.

Đối với Hitler, Himmler và Goebbels, “Chiến dịch người sói” là một yếu tố cốt lõi trong viễn cảnh về chiến thắng hoàn toàn hoặc ngày tận thế. Chiến dịch này được tiến hành đúng thời điểm khi cuộc tấn công của phe Đồng minh vào lãnh thổ Đức thực sự đang cận kề, còn các phong trào địa phương ở phía Đông đang trỗi dậy, nơi các du kích cộng sản tiến hành chiến tranh du kích, ám sát và phá hoại chống quân chiếm đóng Đức. Ngay cả ở những vùng lãnh thổ mà phe Đồng minh tin rằng họ đã chinh phục, Himmler vào tháng 10/1944 vẫn tuyên bố rằng người Đức sẽ ‘liên tục sống dậy và giống như những người sói”.

Hoàng hôn của Đức Quốc xã

Đối với phần lớn đảng viên Quốc xã và hàng triệu người Đức, ranh giới giữa tự nhiên và siêu nhiên, giữa khoa học thực nghiệm và khoa học ngoài lề, luôn luôn mờ nhạt. Tuy nhiên, khi Đệ tam Đế chế bước vào giai đoạn chiến tranh toàn diện sau trận Stalingrad, tư duy ngày càng bộc lộ dưới những hình thức bạo lực và hoang đường hơn. Lối suy nghĩ này thể hiện rõ trong Chiến dịch Người Sói và đáng chú ý hơn, trong việc người Đức bản địa cáo buộc các du kích Slav là ma cà rồng. Tư duy siêu nhiên còn lan sang lĩnh vực vũ khí, dẫn tới một cuộc tìm kiếm tuyệt vọng những loại vũ khí kỳ diệu mang sức hủy diệt siêu lớn và ngày càng hoang tưởng, trong đó có cả máy phản trọng lực, “tia tử thần” và tên lửa khổng lồ. Tất cả những thứ này hoàn toàn không có cơ sở trong thực tế hay công nghệ.

Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh, nhiều người Quốc xã và thường dân Đức muốn tin rằng cái chết không phải là sự kết thúc, rằng tưởng tượng là hiện thực, rằng một “thầy tế phép” như Hitler hoặc một nhà tiên tri mới có thể cứu họ khỏi sự hủy diệt. Theo cách đó, những mối bận tâm hoang đường của chế độ với vũ khí kỳ diệu, du kích người sói, ma cà rồng và nghi lễ tự thiêu đã đóng vai trò như một hình thức trị liệu cho người Đức đang chịu khổ sở cả vật chất lẫn tinh thần.

Vào cuối chiến tranh, vô số câu chuyện, lời tiên tri và thuyết âm mưu được người Đức lan truyền không phải chủ yếu để công kích người Do Thái, cộng sản hay hội Tam điểm, mà chủ yếu để vẽ ra những viễn cảnh báo thù và cứu chuộc. Lần cuối cùng người Đức tìm đến thế giới tưởng tượng siêu nhiên không còn liên quan đến việc thống trị chính trị, thanh lọc sắc tộc hay xây dựng đế chế nữa. Thay vào đó, nó phản ánh nhiều hơn nỗi hy vọng và sợ hãi sau sự tan rã của Đệ tam Đế chế.

Thùy Dương/Báo Tin tức và Dân tộc