08:08 31/08/2021

Phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi: Bài 2 - Hình thành nhiều dự án, cây trồng đặc sản địa phương

Triển khai chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020, Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025... các địa phương, đặc biệt là nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã có sự phát triển vượt bậc, nhiều cách làm thiết thực, sáng tạo, đẩy mạnh triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ, tạo nhiều điểm "sáng" trong sản xuất nông, lâm nghiệp.

Qua đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, từng bước thay đổi diện mạo nông thôn miền núi và cải thiện đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số 

Chú thích ảnh
Chè Shan tuyết được chọn lựa kỹ càng trước khi chế biến. Ảnh tư liệu: Nam Sương/TTXVN

Phát triển sản phẩm đặc thù địa phương

Với lợi thế và tiềm năng, những sản phẩm đặc thù sẵn có tại địa phương, các chương trình, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, ứng dụng khoa học và công nghệ phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã tạo ra nhiều điểm "sáng".

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang cho biết: Thời gian qua, nhiều địa phương đã chú trọng đến chất lượng sản phẩm, sản phẩm đặc thù địa phương và đã được cấp chỉ dẫn địa lý vùng trồng, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn mác bao bì nhận diện sản phẩm...

Điển hình, tỉnh Bắc Kạn đã có nhiều chương trình, dự án phát triển cây chè tạo thành vùng sản xuất hàng hóa, có giá trị kinh tế cao; đồng thời xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao công nghệ nhân giống; trồng mới thâm canh cải tạo nương chè già cỗi và chế biến chè tại các xã vùng thấp, vùng dân tộc...

Cây chè Shan tuyết - sản phẩm đặc thù địa phương đã được nhân rộng diện tích trồng theo hướng VietGAP, hữu cơ. Ngoài ra, với cây hồng không hạt Bắc Kạn, thời gian qua, tỉnh đã triển khai một số đề tài, dự án nhằm đánh giá, tuyển chọn cây đầu dòng, nhân giống, xây dựng mô hình thâm canh, cải tạo, phục tráng hồng. Thông qua các đề tài ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, diện tích hồng không hạt tăng dần qua các năm.

Không chỉ các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc mà tại Bình Phước, tỉnh cũng xác định, một trong những giải pháp hiệu quả góp phần phát triển kinh tế-xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là triển khai các dự án khoa học công nghệ hỗ trợ thiết thực cải thiện cuộc sống, mang lại hiệu quả kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Bởi vậy, bên cạnh các đề tài nghiên cứu và chuyển giao, ứng dụng khoa học và công nghệ, Sở Khoa học và Công nghệ chú trọng triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào phát triển sản phẩm đặc thù địa phương, xây dựng mô hình phát triển vùng nguyên liệu chè và nhà máy chế biến trà Ô Long - Sản phẩm đã từng bước khẳng định được thương hiệu, được khách hàng tại thị trường trong nước chấp nhận và đẩy mạnh xuất khẩu. 

Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, nhiều kết quả đề tài nghiên cứu ứng dụng đã tạo động lực cho phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là cơ sở cho việc định hướng phát triển kinh tế-xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đối với vùng đồng bào dân tộc, kết quả của các đề tài, dự án đã tác động tích cực đến nhận thức, phương thức sản xuất, tạo thành vùng sản xuất hàng hóa có giá trị kinh tế cao, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân.

Ưu tiên dự án theo chuỗi liên kết

Chú thích ảnh
Vườn thanh long ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGap. Ảnh tư liệu: Phan Minh Hưng/TTXVN

Thực hiện Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025, nhiều địa phương đã nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao được nhiều mô hình, công nghệ phù hợp với từng vùng miền, góp phần quan trọng vào thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, miền núi và vùng dân tộc thiểu số.

Đặc biệt, trong giai đoạn này, các dự án theo chuỗi liên kết được ưu tiên lựa chọn nhằm tạo hướng đi bền vững giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho người dân, trong đó xây dựng các mô hình liên kết giữa đơn vị sản xuất với nông dân và với nhà phân phối thành chuỗi giá trị từ khâu đầu vào, sản xuất, sau thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm. Tỷ lệ các dự án do doanh nghiệp chủ trì đạt 66,5%, cao hơn nhiều so với các giai đoạn 2004-2010 là 26,2%; giai đoạn 2011-2015 là 44,5%, điều này thể hiện sự thay đổi về mặt tư duy trong việc đề xuất dự án từ địa phương. Các doanh nghiệp được khuyến khích tham gia thực hiện dự án nhằm đổi mới công nghệ để tạo ra các sản phẩm có giá trị cao và thu hút nguồn lực xã hội tham gia vào sản xuất.

Các chính sách, pháp luật của Trung ương và địa phương về khoa học và công nghệ trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi luôn được triển khai đồng bộ kịp thời, đầy đủ, phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương, qua đó góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hỗ trợ kết nối thị trường, liên kết trong sản xuất theo chuỗi.

Thông qua việc triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách, pháp luật về khoa học và công nghệ đã từng bước cải thiện và nâng cao điều kiện sống của người dân ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi; tạo sự chuyển biến về tư duy, mô hình phát triển sản xuất, tạo ra các sản phẩm có giá trị, hàm lượng khoa học và công nghệ cao; tạo điều kiện để người dân ở khu vực này ổn định và đa dạng hóa sinh kế, giảm nghèo bền vững, tăng thu nhập, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, giảm dần khoảng cách chênh lệch về phát triển so với các vùng miền khác.

Qua các hoạt động ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ vào đời sống và sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện, ổn định và nâng cao hơn trước, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Bên cạnh đó, nếp sống văn hóa vẫn được duy trì, nhiều phong tục tập quán tốt đẹp được giữ vững.

Bài cuối: Chuyển khó khăn thành cơ hội để bứt phá

HL (TTXVN)