Hơn 20 năm phát triển, nghề nuôi cá lóc đã giúp nhiều hộ dân ven biển Quảng Trị đổi đời. Nhưng phát triển nóng, thiếu quản lý đang đe dọa môi trường khiến nguồn nước ô nhiễm, rừng phòng hộ xé lẻ, hệ sinh thái suy giảm. Để bảo đảm sinh kế bền vững, tỉnh cần quy hoạch vùng nuôi, hạ tầng xử lý nước thải và giám sát chặt chẽ.
Thực trạng ô nhiễm và rủi ro sinh kế
Vùng cát ven biển thôn Bắc Hòa và Tân Hải, xã Cam Hồng chi chít những ao hồ nhân tạo (ảnh tư liệu).
Ngay sau khi bộ máy chính quyền xã Cam Hồng đi vào hoạt động, UBND xã tiến hành rà soát toàn bộ các công trình đào hồ nuôi cá. Từ danh sách bàn giao 28 trường hợp vi phạm, xã phát hiện thực tế có tới 65 công trình sai phạm về đất đai, lấn chiếm đất rừng và xây dựng trái phép.
Bà Trần Thị Ngọc Trâm, Chủ tịch UBND xã Cam Hồng, cho biết: Chính quyền đã vận động người dân tạm dừng đào hồ mới, yêu cầu các hộ đang nuôi cam kết hoàn trả mặt bằng sau thu hoạch. Tinh thần chung là khuyến khích bà con giữ gìn môi trường, đồng thời hỗ trợ chuyển đổi sang mô hình sản xuất bền vững hơn.
Nhiều hộ dân đã tự giác dừng xây hồ, chấp nhận thua lỗ. Ông Võ Văn H. (thôn Bắc Hòa) chia sẻ: "Tôi chỉ nuôi đến hết vụ này rồi trả đất. Biết sai thì phải chịu, nhưng mong sớm có vùng nuôi quy hoạch để bà con yên tâm làm ăn". Ông Võ Văn T., hộ có ba hồ đang xây dở, cũng dừng thi công và chia sẻ: "Thấy ai cũng làm nên mình làm theo. Giờ được giải thích, vận động thì phải tuân thủ".
Nước thải cá hồ nuôi cá lóc được xả trực tiếp ra mương dẫn ra biển, không qua bất kỳ hệ thống xử lý nào.
Ông Võ Văn Diện, Trưởng thôn Tân Hải, cho biết: Thôn có khoảng 100 hồ, mỗi hồ chứa trung bình 400 m³ nước. Mỗi ngày thay nước một lần, tức khoảng 40.000 m³ nước thải xả thẳng ra môi trường. Anh Nguyễn Văn Tuân tính toán: "Nuôi 12 tấn cá phải dùng 14 tấn thức ăn. Lượng chất thải từ cá và thức ăn dư rất lớn. Ngày nào cũng thay nước, xả ra khe, chảy thẳng ra biển".
Kết quả, nhiều khe nước đổ ra biển đổi màu đen, bốc mùi nồng nặc, cá chết nổi trắng, ruồi nhặng bu kín. Mùa nắng, mùi hôi theo gió lan vào khu dân cư. Nguy cơ khác là nước thải ngấm vào mạch ngầm, ảnh hưởng nguồn nước sinh hoạt. Ven biển vốn đã khan hiếm nước sạch, nay nguồn nước ngầm thêm nguy cơ nhiễm mặn, nhiễm phèn và ô nhiễm hữu cơ.
Ông Trần Quốc Tuấn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Quảng Trị, khẳng định: để xảy ra lấn chiếm đất rừng, đào ao ồ ạt là trách nhiệm của chính quyền cơ sở. Sở đã yêu cầu địa phương thống kê đầy đủ các cơ sở nuôi, đánh giá tác động môi trường, khai thác nước ngầm và xử lý nghiêm vi phạm. Đồng thời phối hợp Công an tỉnh lấy mẫu nước xét nghiệm tại khu vực nuôi cá lóc.
Quy hoạch vùng nuôi - giải pháp bền vững
Giữa vùng rừng phòng hộ chắn cát trắng ven biển tại thôn Bắc Hòa (xã Cam Hồng) nay xuất hiện nhiều hồ nuôi cá lóc tự phát.
Trước áp lực môi trường và rủi ro sinh kế, nhiều hộ dân và hợp tác xã mong muốn có vùng nuôi tập trung hợp pháp, đủ hạ tầng xử lý chất thải. Ông Trần Kim Phi, Giám đốc Hợp tác xã Kim Phi đề xuất quy hoạch khu nuôi khoảng 10 ha ở cuối thôn Bắc Hòa, xa khu dân cư, gần cơ sở chế biến. "Nếu triển khai, sẽ hình thành mô hình khép kín: xử lý nước thải đồng bộ, có đầu mối tiêu thụ, nâng chất lượng sản phẩm, hướng tới xuất khẩu cá lóc Quảng Trị", ông Phi nói.
Ông Nguyễn Hữu Phước, Giám đốc HTX Ngư Nam (xã Sen Ngư), nhận định: Với vùng nuôi quy hoạch, cá lóc Quảng Trị có thể xây dựng chỉ dẫn địa lý, mở rộng thị trường chế biến. HTX Ngư Nam mỗi năm chế biến hàng trăm tấn cá lóc thương phẩm thành các sản phẩm cá khô tẩm gia vị, doanh thu khoảng 5 tỷ đồng. Vùng nuôi ổn định sẽ giúp sản phẩm giữ vững thương hiệu.
TS. Đường Văn Hiếu, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao công nghệ môi trường miền Trung, cảnh báo: "Không có quy hoạch và xử lý môi trường, người dân sẽ trả giá kép – mất nguồn nước và kế sinh nhai". Theo TS. Hiếu, hệ thống RAS (Recirculating Aquaculture System - Hệ thống nuôi thủy sản tuần hoàn) là công nghệ nuôi thủy sản hiện đại, cho phép tái sử dụng nước trong hồ nuôi nhiều lần thay vì xả thải trực tiếp ra môi trường. Hệ thống này giúp kiểm soát chất lượng nước, giảm rủi ro ô nhiễm và tăng hiệu quả sản xuất.
Chuyên gia về môi trường Lê Công Tuấn cho rằng xả nước thải trực tiếp với khối lượng lớn sẽ làm suy giảm nhanh chất lượng nước ngầm, phá vỡ hệ sinh thái cát và nhấn mạnh cần rà soát toàn bộ vùng nuôi tự phát, đánh giá tác động môi trường và ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc.
Vùng cát ven biển thôn Bắc Hòa và Tân Hải, xã Cam Hồng chi chít những ao hồ nhân tạo, bao quanh bởi các mương thoát nước đen ngòm, bốc mùi hôi thối nồng nặc.
Ông Trần Quốc Tuấn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Quảng Trị cho biết: "Tới đây, chúng tôi sẽ tham mưu UBND tỉnh lập quy hoạch vùng nuôi tập trung, có hạ tầng xử lý nước thải- điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững".
Lợi ích kinh tế của nghề nuôi cá lóc trên cát là không thể phủ nhận: hàng trăm hộ thoát nghèo, đời sống khấm khá. Nhưng nếu tiếp tục phát triển tự phát, không xử lý chất thải, Quảng Trị sẽ phải trả giá đắt: mất môi trường sống, mất nguồn nước, mất chính sinh kế đã gây dựng. Nhiều người dân, lãnh đạo hợp tác xã và chuyên gia đều thống nhất rằng chỉ khi có vùng nuôi hợp pháp, hạ tầng đồng bộ, công nghệ hiện đại và quản lý nghiêm ngặt, nghề nuôi cá lóc mới tiếp tục mang lại lợi ích lâu dài.
Ông Trần Kim Phi nhấn mạnh: "Chúng tôi muốn nuôi cá lóc không chỉ là sinh kế mà còn là thương hiệu bền vững. Vùng nuôi tập trung, xử lý nước thải tốt sẽ giữ môi trường, bảo vệ nguồn nước, nâng cao chất lượng sản phẩm và ổn định thu nhập cho người dân".
Quy hoạch vùng nuôi tập trung và xử lý nước thải không chỉ là giải pháp kỹ thuật mà còn là điều kiện sống còn để bảo vệ cả môi trường và tương lai kinh tế của vùng cát trắng. Phát triển bền vững phải đặt lợi ích lâu dài của cộng đồng lên trên lợi ích trước mắt, để không ai phải lựa chọn giữa miếng cơm hôm nay và môi trường của ngày mai. Như vậy, câu chuyện nuôi cá lóc trên cát ở Cam Hồng, Sen Ngư không chỉ là câu chuyện sinh kế thoát nghèo mà còn là bài học về phát triển bền vững. Nếu được quản lý tốt, mô hình này sẽ trở thành minh chứng điển hình cho việc cân bằng giữa kinh tế-xã hội-môi trường, nơi người dân được hưởng lợi từ lao động và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.