11:18 21/11/2025

Nhiều loại vi khuẩn gây viêm phổi cộng đồng đã kháng các thuốc kháng sinh phổ biến

Tình trạng kháng thuốc kháng sinh đang là thách thức rất lớn, nhất là ở trẻ em, nhiều chủng vi khuẩn gây bệnh đường hô hấp đã giảm đáng kể mức độ nhạy cảm với các kháng sinh được kê đơn phổ biến hiện nay.

Chú thích ảnh
 Các chuyên gia trao đổi tại hội thảo khoa học “Đề kháng kháng sinh và chiến lược điều trị nhiễm trùng đa chuyên khoa” do Hội Hô hấp Việt Nam phối hợp với GSK Việt Nam tổ chức.

Trước tình hình kháng kháng sinh đang diễn ra ở mức đáng báo động, tại hội thảo khoa học “Đề kháng kháng sinh và chiến lược điều trị nhiễm trùng đa chuyên khoa” do Hội Hô Hấp Việt Nam phối hợp với GSK Việt Nam tổ chức, hưởng ứng Tuần lễ Tăng cường nhận thức về kháng kháng sinh (từ ngày 18-24/11), PGS.TS.BS. Phạm Tuấn Cảnh, Phó Chủ tịch Hội Tai mũi họng Việt Nam cảnh báo: “Hiện nay, dữ liệu cho thấy chủng vi khuẩn phế cầu gây bệnh hô hấp đang giảm đáng kể mức độ nhạy cảm với các kháng sinh thuộc nhóm cephalosporin thế hệ 2 và nhóm macrolide. Đây là dấu hiệu cảnh báo về tình trạng kháng thuốc ngày càng phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa xét nghiệm vi sinh và lựa chọn kháng sinh hợp lý trong thực hành lâm sàng”.

PGS.TS. Trần Minh Điển, Chủ tịch Hội Nhi khoa Việt Nam cũng đưa ra dẫn chứng: “Từ dữ liệu của Bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy, bệnh hô hấp chiếm tỷ lệ nhập viện cao nhất từ năm 2020 – 2024 và có xu hướng gia tăng mỗi năm. Các vi khuẩn chính gây viêm phổi cộng đồng ở trẻ em tại miền Bắc, Việt Nam là Haemophilus Influenzae, phế cầu và Moraxella catarrhalis. Phần lớn các chủng này đã có tỷ lệ kháng cao với nhóm beta-lactam thông thường và macrolide - là những kháng sinh được kê đơn phổ biến hiện nay”.

Theo các chuyên gia, Việt Nam là một trong những quốc gia đang phải đối mặt với mối đe dọa ngày càng gia tăng của tình trạng kháng kháng sinh, bắt nguồn từ việc sử dụng kháng sinh không cần thiết trong các trường hợp không nhiễm khuẩn, hoặc không hợp lý đối với từng loại vi khuẩn trong nhiều năm qua. Đặc biệt trong điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cộng đồng, một số trường hợp buộc phải sử dụng kháng sinh liều cao cho trẻ em. Đặc biệt, theo nghiên cứu của Torumkuney và cộng sự, tỷ lệ kháng thuốc của chủng vi khuẩn Phế cầu và Haemophilus Influenzae - hai tác nhân chính gây viêm phổi, viêm tai giữa và viêm xoang - hiện đang ở mức báo động.

Hậu quả của việc sử dụng kháng sinh khi không cần thiết là chúng tiêu diệt cả các vi khuẩn có lợi bảo vệ cơ thể, tạo điều kiện cho vi khuẩn đề kháng gia tăng, phát triển và chiếm ưu thế, đồng thời truyền cơ chế kháng thuốc sang các vi khuẩn khác. Lạm dụng kháng sinh đang đẩy nhanh quá trình này, khiến kháng thuốc trở thành một vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, kìm hãm phát triển kinh tế, gia tăng tỷ lệ nghèo đói và tạo ra bất công trong xã hội. Nguy hại hơn nữa, tình trạng kháng kháng sinh ngày càng gia tăng đang vô hiệu hóa khả năng diệt khuẩn của kháng sinh, làm tăng nguy cơ tử vong do các bệnh nhiễm trùng, đẩy lùi y học nhân loại trở về thế kỷ XIX khi bệnh nhiễm trùng còn là một bệnh nan y.

Trước thực trạng trên, việc phối hợp hành động đa chuyên khoa để kiểm soát tình trạng kháng kháng sinh là rất cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh lạm dụng kháng sinh cho các bệnh lý hô hấp nhẹ vẫn còn phổ biến.

Theo PGS.TS Trần Minh Điển, chiến lược quản lý kháng sinh trong nhi khoa cần dựa trên khung phân loại của WHO, gồm ba nhóm kháng sinh: Nhóm tiếp cận, nhóm theo dõi và nhóm dự trữ, với mục tiêu kê đơn đúng và hợp lý. Bên cạnh tuân thủ chiến lược quản lý và sử dụng kháng sinh, cần thúc đẩy chiến lược chẩn đoán nhằm chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh, giúp chỉ định kháng sinh đúng và đủ, giảm bớt kê đơn kháng sinh với các trường hợp nhiễm virus.

“Việc kiểm soát kháng kháng sinh cần được tiếp cận một cách toàn diện, đặc biệt trong ba lĩnh vực: Hô hấp, tai mũi họng và nhi khoa, là nơi kháng sinh được sử dụng phổ biến nhất. Để xây dựng chiến lược quản lý nhiễm khuẩn hiệu quả, cần dựa trên dữ liệu vi sinh cập nhật tại các bệnh viện, các nghiên cứu như SOAR (chương trình nghiên cứu giám sát kháng sinh) và khảo sát hành vi sử dụng thuốc. Đồng thời, việc đồng bộ hóa hướng dẫn điều trị và triển khai các chương trình đào tạo cho nhân viên y tế ở mọi cấp là yếu tố then chốt nhằm bảo vệ hiệu quả kháng sinh lâu dài”, GS.TS.BS. Ngô Quý Châu, Chủ tịch Hội Hô hấp Việt Nam đề xuất.

TN/Báo Tin tức và Dân tộc