10:07 29/10/2014

Nhà văn Nam Cao vẫn ở trong tâm trí chúng ta

Vào ngày này cách đây 99 năm, ngày 29/10/1915, nhà văn Nam Cao - một trong những nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam tiêu biểu nhất thế kỷ XX, đã chào đời.

Vào ngày này cách đây 99 năm, ngày 29/10/1915, nhà văn Nam Cao - một trong những nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam tiêu biểu nhất thế kỷ XX, đã chào đời.

Nhiều truyện ngắn của ông được xem như là khuôn thước cho thể loại này. Đặc biệt, một số nhân vật trong các tác phẩm của Nam Cao trở thành những hình tượng điển hình, được sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày.

Nhà văn Nam Cao.


Nam Cao viết truyện đầu tay khi chưa tròn 20 tuổi, viết tác phẩm xuất sắc “Chí Phèo” lúc 26 tuổi, viết tiểu thuyết “Sống mòn” lúc 29 tuổi... để rồi tên tuổi của ông được xướng lên cùng với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng - những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất. Ông còn là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Nam Cao là bút danh của nhà văn - nhà báo - liệt sĩ Trần Hữu Tri. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Học xong thành chung, Nam Cao bôn ba nhiều nơi, nhưng bệnh tật đã khiến ông phải về quê, sống bằng nghề dạy học và viết văn. Năm 1943, ông gia nhập Hội văn hoá cứu quốc và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương. Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và được cử làm chủ tịch xã.

Sau Cách mạng Tháng Tám, với tư cách là phóng viên, Nam Cao có mặt trong đoàn quân Nam tiến, rồi lên chiến khu Việt Bắc làm phóng viên báo Cứu quốc. Ngày 30/11/1951, trên đường đi công tác, ông hy sinh tại làng Vũ Đại, huyện Gia Viễn, Ninh Bình, khi tài năng đang nở rộ. Ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1, năm 1996.

Sinh thời, Nam Cao thường suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”. Sự nghiệp của ông bắt đầu bằng các trang văn lãng mạn. Nhưng rồi, ông nhận ra: văn chương lãng mạn xa lạ với đời sống lầm than. Khi nhận ra: “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối”, Nam Cao khước từ chủ nghĩa lãng mạn để coi trọng nghệ thuật hiện thực vị nhân sinh.

Hơn ai hết, Nam Cao coi nghề văn là nghề sáng tạo, nhà văn là nhà sáng tạo. Và ông đã thể hiện được sự sáng tạo trong từng trang sách. Ông không chỉ xây dựng được những tính cách điển hình vô tiền khoáng hậu mà còn là người đầu tiên phản ánh sâu sắc hiện tượng nông dân lương thiện tha hóa thành quỷ dữ, trí thức tài năng vật lộn với bi kịch tinh thần nhằm bảo vệ nhân cách.

Hình tượng nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên.


Năm 1941, tập truyện đầu tay “Đôi lứa xứng đôi” (tên trong bản thảo là “Cái lò gạch cũ”) của Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới (Hà Nội) ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học. Sau này, khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là “Chí Phèo”.

Đây là một truyện ngắn xuất sắc được viết từ cái làng yêu dấu gắn với tuổi thơ của ông với những câu chữ đau vào tận gan ruột, viết về số phận người nông dân bị xã hội thực dân phong kiến đàn áp, biến dạng từ bần cùng hóa đến lưu manh hóa.

Miêu tả chân thực cuộc sống nghèo khổ, tủi nhục của người tiểu tư sản, Nam Cao đặc biệt đi sâu vào những đau đớn trong tâm hồn của họ và đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đó là cái bi kịch của những kẻ khao khát sống cuộc sống có ý nghĩa chân chính mà cứ bị lo lắng cơm áo hàng ngày giày vò, phải sống cuộc sống “đời thừa” vô nghĩa, như các tác phẩm: “Đời thừa”, “Nước mắt”, “ Trăng sáng”, “Bài học quét nhà”.

Nhiều truyện của Nam Cao cũng đã ghi lại cuộc đấu tranh tư tưởng của người tiểu tư sản, đấu tranh với sự cám dỗ của cuộc sống hưởng lạc tư sản, đấu tranh với lối sống ích kỷ, dung tục tiểu tư sản để vươn tới lẽ sống nhân đạo.

Truyện dài Sống mòn là sự tổng hợp của những sáng tác về đề tài tiểu tư sản của Nam Cao. Truyện dài “Truyện người hàng xóm” miêu tả cuộc sống lam lũ tối tăm của một xóm nghèo ngoại ô, nhưng ánh lên cái nhìn lạc quan nhân đạo của những người nghèo khổ.

Với hơn 20 truyện ngắn viết về nông dân, tiêu biểu như: “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Một đám cưới”, “Một bữa no”, “Lang Rận”, “Điếu văn”, “Mua danh”, “Tư cách mõ”... Nam Cao đã dựng lên bức tranh về nông thôn Việt Nam những năm 1940-1945.

Cùng với các nhà văn hiện thực xuất sắc Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, các tác phẩm của Nam Cao thời kỳ 1941-1944 đã góp phần không nhỏ vào thành tựu của dòng văn học hiện thực Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Có thể nói, từ tác phẩm “Chí Phèo” để lại dấu ấn, đến năm 1944, là thời kỳ sáng tác sung mãn và có hiệu quả nhất trong đời viết văn của Nam Cao. Ông đã đạt tới đỉnh cao chất lượng mới: Chất lượng ngôn ngữ nghệ thuật, chất lượng tư duy xã hội và tư duy văn học.

Sau 1945, đặc biệt là từ kháng chiến chống Pháp, ông nêu quyết tâm: “sống đã rồi hãy viết”. “Sống” là cầm súng chiến đấu giải phóng dân tộc, sẵn sàng làm anh “tuyên truyền viên nhãi nhép” đem ngòi bút phục vụ công nông binh. Ông vui vẻ nhận ra “góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn”.

Lúc này ngòi bút Nam Cao hoạt động với tư cách ngòi bút của một cán bộ làm báo, làm văn. Ngoài viết văn, ông còn viết tin, làm ca dao, soạn kịch ngắn tuyên truyền, viết hoặc dịch sách phổ thông về địa lý, lịch sử, thời sự.

Trong mảng sáng tác sau cách mạng, Nam Cao đã để lại nhiều sáng tác có giá trị đặc sắc và tiêu biểu cho văn xuôi kháng chiến thời kỳ đầu. “Nhật ký ở rừng” viết trong thời kỳ ông công tác tại Bắc Cạn, đã thể hiện niềm yêu thương ấm áp đối với người dân miền núi chất phác mà thiết tha với cách mạng, niềm quyết tâm và tin tưởng của người nghệ sĩ tiểu tư sản trung thực đang nỗ lực vươn lên trong cuộc sống mới.

Truyện ngắn “Đôi mắt” là truyện ngắn thành công nhất của Nam Cao trong kháng chiến. Chuyện biên giới và bút ký “Vài nét ghi qua vùng giải phóng” viết trong dịp ông tham gia chiến dịch Cao Bằng-Lạng Sơn là những ký họa sinh động, tràn ngập không khí lạc quan, có những hình ảnh giản dị, đẹp đẽ về chủ nghĩa anh hùng. Tất cả toát lên vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của bộ đội, nhân dân trong chiến dịch...

Có thể nói, trong các tác phẩm của Nam Cao, nổi bật một phong cách trữ tình, sâu lắng, trào lộng, xót xa, hóm hỉnh mà tế nhị, sang trọng mà bình dị, tinh vi mà khái quát. Ở đây có cả văn chương, có cả tâm huyết, có cả tài năng lớn của một ước vọng nhân văn cao đẹp mà nhà văn ký thác với cuộc đời.

Với 15 năm cầm bút, ông đã để lại một văn nghiệp đồ sộ với 2 tiểu thuyết, 50 truyện ngắn, bút ký…, trong đó có những nhân vật mà diện mạo và số phận của nó không thể phai mờ trong tâm trí bạn đọc nhiều thế hệ.


Trung tâm Thông tin Tư liệu/TTXVN